
Thích Huyền Tôn: Thiền Thi Vân Tập Cú tập Hai 禪 詩 雲 集 句
禪 詩 雲 集 句
Thiền Thi Vân Tập Cú Tập Hai
Lão Tăng sưu tập Thiền-thi, cống hiến các bạn uống trà, ngâm nga, nghiệm thâm ý, trực ngộ diệu lý
Bất sanh, bất diệt. Bổng nhiên bay vút không trung, cười vui ha hả, nhìn thấy cõi trần không không
Vô tận…Tam-khổ, Bát-khổ biến thành Tịnh-độ. Tu, Tu nhiều, vui thú nhiều bạn nhỉ !
—————0—————
11. Nhật Nam Tăng Thiền Sư.
Chỉ biết Ngài người ở Nhật-Nam. Thi Hào Trương Tịch có bài Thi Tặng Ngài
Thơ đề là SƠN-TRUNG-TẶNG NHỰT-NAM-TĂNG:
Độc Hướng Song Phong Lão, 獨 向 雙 峰 老
Tùng Môn Bế Lưỡng Nhai. 松 門 閉 兩 崖
Phiên Kinh Thượng Tiêu Diệp, 翻 經 上 蕉 葉
Quải Nạp Lạc Đằng Hoa. 掛 衲 落 藤 花
Thứu Thạch Tân Khai Tỉnh, 鷲 石 新 開 井
Xuyên Lâm Tự Chủng Ma. 穿 林 自 種 痲
Thời Phùng Nam-hải Khách, 時 逢 南 海 客
Man Ngữ Vấn Thùy Gia. 蠻 語 問 誰 家
HT. Mật Thể, Dịch
Núi thẳm một mình ẩn,
Cửa tùng đôi cánh gài.
Lá chuối biên kinh cũ,
Bông mây rụng áo dài,
Lật đá khơi ngòi giếng,
Xoi rừng tỉa giống gai.
Khi gặp khách Nam-hải,
Tiếng Mường biết hỏi ai ?
HT. Huyền Tôn, Dịch:
lão ở đỉnh đầu non,
Cữa đóng đôi sườn núi.
Viết kinh trên lá chuối,
Áo dài móc lùm hoa,
Lật đá moi thành giếng,
Xoi đất gieo giống mè,
Khi gặp người Nam-hải,
Tiếng mường hỏi ai nghe ? Độc hướng song phong (Lão một mình ở trên 2 đỉnh núi).
Còn tòng môn bế lưỡng nhai (hai sường núi đâu vào nhau như hai cánh cửa). Cố HTMT dịch “Cửa
Tùng đôi cánh gài.” Thị thật quá hay, nhưng nó mất chữ “lưỡng nhai”thiếu cái hùng vỹ của hoang-sơn.
Tuyệt cảnh.
12. PHỤNG ĐÌNH PHÁP SƯ.
Ngài sang Trung Quốc, giảng kinh trong cung Vua Dường, khi về có Thi-
Hào Dương-cự-nguyên tặng thơ tiễn biệt :
Tống Phụng-Đình Pháp-sư qui An-Nam:
Cố hương Nam-Việt ngoại, 固 鄉 南 越 外
Vạn lý bạch vân phong. 萬 里 白 雲 風
Kinh luân từ thiên khứ, 經 論 辭 天 去
Hương hoa nhập hải phùng. 香 花 入 海 逢
Lộ đào thanh phạm triệt, 鷺 濤 清 範 徹
Thần các hóa thành trùng. 蜃 閣 化 城 重
Tâm đáo trường an mạch, 心 到 長 安 陌
Giao châu hậu dạ chung. 交 州 後 夜 鍾
HT. Mật Thể, Dịch:
Quê nhà trông cõi Việt,
Mây bạc tít mù xa.
Cửa trời vắng kinh kệ,
Mặt bể nổi hương hoa.
Sóng gợn cò im bóng,
Thành xây hến mấy tòa.
Trường-an lòng quấn-quít,
Giao-Châu chuông đêm tà…
HT. Huyền Tôn, Dịch:
Cố hương Nam Việt cõi quê nhà,
Mây trắng muôn trùng vạn dặm xa.
Kệ kinh để lại phòng Vua ngự,
Mặt biển phương trời nổi hương hoa.
Sóng cuộn Cò bay im cánh vỗ,
Cát cồn Hến chạy xóa dấu tòa.
Sắp đến Trường An lòng rộn rả,
Giao Châu chuông gọi Nhớ Sơn Hà!
13. Thiền Sư Huyền Quang
Tổ Thứ Ba Phái Trúc Lâm. Thế-kỷ 13.
Thiền-sư họ lý, ở làng vạn-tải, sanh năm Giáp-dần (TL1254 – 1334)
Thọ 80 tuổi. VL.4133-4213.Giáp-tuất. Đời Trần-Minh-tông.
Vua Minh Tông phong Thụy cho Ngài là: Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại,
Đặc phong Tứ Pháp Huyền Quang Tôn Giả. Thi văn của Ngài khá nhiều,
Nay xin dâng mấy bài:
Nhơn Chi Vi Đạo Khởi Tha Tầm, 人 之 為 道 豈 他 尋
Tâm Ấn Phật Hề Phật Ấn Tâm. 心 印 佛 兮 佛 印 心
Huệ Địch Kiết Tường Vi Ảnh Hưởng, 惠 迪 吉 祥 為 影 響
Thử Sanh Tất Kiến Hảo Tri Âm. 此 生 必 見 好 知 音.
HT, Thanh Từ, Dịch:
Người mà vì đạo chớ tìm đâu
Phật vốn tâm mình, tâm Phật sâu
Mong thấy điềm lành là ảnh hưởng
Đời nầy ắt gặp bạn tâm đầu.
HT. Huyền Tôn, dịch:
Ta có đạo rồi há tìm đâu
Phật ta đã sẳn chớ mong cầu
Huệ đã cát tường là trí huệ
Suốt đời tất tỏ thiền tuệ sâu.
Bài Tặng Sĩ Đồ Tử Đệ
Phú quí phù vân trì vị đáo 富 貴 浮 雲 遲 未 到
Quang âm lưu thủy cấp tương thôi 光 陰 流 水 急 相 催
Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ 何 如 小 隱 林 泉 下
Nhất tháp tùng phong, trà nhứt bôi. 一 榻 松 風 茶 壹 坯
HT. Thanh Từ, dịch:
Giàu sang mây nổi đến dần dà
Ngày tháng trôi nhanh chẳng đợi mà
Chi bằng tiểu ẩn (1) nơi rừng suối
Một giường gió mát, một chung trà.
(1)Tiểu ẩn là nơi rừng núi, Trung ẩn là làm quan nhỏ, Đại ẩn là ở triều đình.
HT. Huyền Tôn, dịch:
Giàu sang đưa đến dễ gì mau
Thấm thoát trôi đi bổng thấy nghèo
Chi bằng an ẩn nơi rừng suối
Một chiếc giường tre, một chén trà.
14. Tuệ Trung Thượng Sĩ. Con của Hưng-Đạo-Vương.
Ngài là Tổ Sư giòng phái Trúc-lâm (bậc đắc đạo).
Ngài nói kệ Các Hạnh Vô Thường:
Vô thường chư pháp hành, 無 常 諸 法 行
Tâm nghi tội tiện sanh. 心 疑 罪 便 生
Bổn lai vô nhứt vật 本 來 無 壹 物
Phi chủng diệc phi manh. 非 種 亦 非 萌
HT.Huyền Tôn, dịch
Các pháp-hành đều Vô thuòng
Tâm khởi nghi, tội liền sanh
Xưa nay vốn không một vật
Không phải giống cũng không phải mầm.
Nghĩa là:
Các pháp làm ra thảy vô thường
Nghi ngờ sanh tội thiệt đáng thương.
Xưa nay các pháp đều không cả ,
Có không không có tỏ tường hay chưa ?
Ngài Lại Nói :
Nhựt Nhựt Đối Cảnh Thời 日 日 對 境 時
Cảnh Cảnh Tùng Tâm Xuất 境 境 從 心 出
]Tâm Cảnh Bổn Lai Vô 心 境 本 來 無
Xứ Xứ Ba-La-Mật. 處 處 波 羅 密
Nghĩa Là:
Ngày ngày khi đối cảnh
Cảnh cảnh từ tâm ra
Tâm cảnh vốn là không
Nơi nơi đều giải thoát.
15. Thiền sư Đạo Hạnh.
Ngài ở Thế-hệ 12 của Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Ngài Tịch Năm Nhâm-thìn
VL.3991 (TL.1112)
Bài Thi : KHÔNG HỮU :
Tác Hữu Trần Sa Hữu 作 有 塵 沙 有
Vi Không Nhất Thiết Không 為 空 一 切 空
Hữu Không Như Thủy Nguyệt 有 空 如 水 月
Vật Trước Hữu Không Không. 勿 著 有 空 空
Nguyễn Lang, dịch :
Có thì có tự mảy may
Không thì vũ trụ này cũng không
Có không : bóng nguyệt lòng sông
Cả hai tuy vậy chẳng không chút nào
HT. Huyền Tôn, dịch:
Hạt bụi có thì có
Là không tất cả không
Có Không trăng bóng trong sông
Bóng trăng hạt bụi có không đâu rồi ? (Cái có của muôn vật thể, đều là
Bóng trăng trong nước!)
16. THIỀN SƯ MÃN GIÁC
Xuân khứ bách hoa lạc 春 去 百 花 落
Xuân đáo bách hoa khai 春 到 百 花 開
Sự trục nhãn tiền quá 事 逐 眼 前 過
Lão tùng đầu thượng lai 老 從 頭 上 來
Mạc vị tàn hoa lạc tận 莫 未 春 殘 花 落 盡
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai 庭 前 昨 夜 一 枝 枚
HT. Nhất Hạnh, dịch:
Xuân đến trăm hoa nở
Xuân đi trăm hoa rơi
Trước mắt đời diễn biến
Trên đầu già đến nơi
Đừng nói xuân đi hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.
HT. Huyền Tôn, dịch :
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuấn đến trăm hoa nở
Việc đời qua trước mắt
Đầu bạc đã đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở nụ mai.
Nói “Mai”là nói đến bản thể Chân-như không sanh diệt, chứ không phải cây
Mai của mỗi độ xuân về, rồi lại đi.
Mai của mỗ
17. THIỀN SƯ KHÔNG LỘ
Trạch Đắc long xà địa khả cư 擇 得 龍 蛇 地 可 居
Dã tình chung nhật lạc vô dư 野 情 終 日 樂 無 餘
Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh 有 時 直 上 孤 丰 頂
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư. 長 叫 一 聲 寒 太 虛
Nguyễn Lang, (Nhất Hạnh) dịch :
Chọn nơi địa thế đẹp sông hồ
Vui thú tình quê quen sớm trưa
Có lúc trèo lên đầu chói núi
Kêu dài một tiếng lạnh hư vô.(1)
- (Dịch giả cho câu thi này :trầm hùng siêu thoát)
HT. HuyềnTôn, dịch:
Địa thế Long Xà chọn để cư
Vui kiếp tình quê trọn chẳng dư
Có khi leo thẳng lên đỉnh núi
La dài một tiếng’lạnh’[ tràn thái hư.
18. Ngộ Ấn Thiền Sư
Diệu tánh hư vô bất khả phan 妙 性 虛 無 不 可 攀
Hư Vô tâm ngộ đắc hà nan 虛 無 心 悟 得 何 難
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận 玉 焚 山 上 色 常 閏
Liên phát lô trung thấp vị càn. 蓮 發 爐 中 濕 味 乾
Nhất Hạnh Dịch:
Chân tính hư vô khó đến nơi
Chỉ hư tâm đạt đến mà thôi
Trên núi ngọc thiêu màu vẫn thắm
Trong lò sen nở sắc thường tươi.
Huyền Tôn, dịch :
Diệu tánh hư vô khó nắm bắt
Ngộ được hư vô tánh thể đắc
Ngọc thiêu trên núi ngọc xinh tươi
Sen đốt trong lò sen đủ sắc.
19, Thiền Sư Chiếu Khoan
Ngài họ Nguyễn sinh năm TL.1741, Tân-dậu. làng Trinh-viên Hà Nội,
Thọ 89 tuổi, Tịch năm 1830.Năm Canh-dần.
Tâm vi thiên địa tiền 心 為 天 地 前
Thân vi thiên địa hậu 身 為 天 地 後
Thân tâm thiên địa nội 身 心 天 地 內
Tuần hoàn vô cùng kỷ. 巡 寰 無 窮 紀
Nhất Hạnh dịch :
Tâm có trước đất trời
Thân có sau trời đất
Đất trời bọc thân tâm
Xây vần bao giờ mất.
Huyền Tôn, họa ý :
Tâm kia có trước đất trời,
Thân sau trời đất từ thời ba sơ.
Hư không bao bọc đất trời ,
Xây vần kiếp kiếp vạn phần như như.
20. Khổng-khưu-Tử. Sinh năm Canh-tuất TTL.551. VL.2329. Lúc Đức
Phật Bổn Sư 74 Tuổi.
Bài Trong Minh Tâm :
Vị qui tam xích thổ 未 歸 三 尺 土
Nan bảo nhứt sanh thân 難 保 壹 生 身
Dĩ quy tam xích thổ Dĩ 歸 三 尺 土
Nan bảo bách niên phần. 難 保 百 年 墳
HT. Huyền Tôn, dịch :
Chưa vào trong lòng đất
Suốt đời khó yên thân
Đã vào trong lòng đất
Trăm năm nát mộ phần.
Hay là :
Xác thân chưa lấp đất vàng
Mấy ai giữ được thân an suốt đời
Nằm yên trong đất thảnh thơi
Ngờ đâu phần mộ ai khơi lạnh lùng,
Kính Mến Chào Độc giả !
Huyền Tôn lão lai không mấy khỏe . Xin tạm nghỉ. Chúc quí vị uống trà thân tâm an-lạs, Xin cáo lỗi những gì sai sót !