Toàn Không: Tôn-giả A-nan-Đà

PHẬT PHÁP

download

Tôn-giả A-nan-Đà, là dòng dõi hoàng tộc, con người chú ruột của Thái-tử Sĩ-Đạt-Ta, tức là em họ của đức Phật. Tôn-giả A-nan-Đà là bậc kỳ tài hiếm có trên thế-gian này, vì Ngài có một bộ óc siêu phàm tuyệt vời. Ngài nhớ được tất cả những lời đức Phật giảng dạy hàng ngày mà Ngài đã được nghe trong suốt thời gian hai mươi lăm năm làm Thị-giả cho đức Phật. 

       Đức Phật xếp Tôn-giả A-Nan-Đà vào hàng các đại đệ-tử vì các điểm đặc biệt, đó là: “Sức học uyên thâm, trí nhớ vô cùng đúng, kiên trì chuyên chú cần mẫn, và khéo biết ý Phật”. Những bộ Kinh ngày nay chúng ta được đọc là do sự đóng góp của Ngài và năm trăm vị Thánh Tăng thời ấy đọc lại thành Kinh sau khi đức Phật nhập Niết-bàn chừng ba bốn tháng. 

1)- A-Nan-Đà làm Thị-giả của Phật.

       Khi đức Phật trú tại thành Vương-Xá, lúc đó có rất nhiều đệ-tử Tỳ-kheo từ Trưởng-Lão trở xuống cũng trú tại thành Vương-Xá, tất cả đều ở vây quanh Phật trong Kỳ-viên Tịnh-xá, bấy giờ Ngài bảo các Tỳ-kheo:

– Các thầy nên biết, hiện nay Ta đã già rồi (Lúc này Phật đã 55 tuổi), thân thể càng ngày càng suy yếu, nên Ta cần có người chăm sóc. Các thầy hãy cử cho Ta một thầy Thị-giả, làm sao để chăm sóc Ta xứng ý, chứ không phải không xứng ý, ghi nhớ lời Ta nói mà không quên mất ý nghĩa. 

       Lúc ấy Tôn-giả Câu-lân-Nhã liền đứng dậy, chắp tay hướng về đức Phật thưa rằng:

– Thưa đức Thế-Tôn, con xin được làm Thị-giả, con xin nguyện hầu hạ Thế-Tôn xứng ý, chứ không phải không xứng ý, con ghi nhớ những lời Ngài nói mà không quên mất ý nghĩa.

       Đức Thế-Tôn bảo:

– Này Câu-lân-Nhã, chính thầy tuổi đã già, thân thể càng ngày càng suy yếu; chính thầy cũng cần có Thị-giả, Thầy nên ngồi xuống đi. 

       Cũng như vậy, hai mươi mốt vị Tôn-giả, hoặc Tôn-giả Trưởng-Lão lần lượt đứng dậy, chắp tay hướng về đức Phật xin được làm Thị-giả; các vị Tôn-giả đều nguyện hầu hạ xứng ý Phật, và ghi nhớ những lời Ngài giảng dạy mà không quên ý nghĩa, nhưng tất cả đều bị Phật từ chối.  

       Khi ấy, Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên suy nghĩ: “Đức Thế-Tôn muốn vị nào làm thị-giả, ý Ngài đặt vào vị Tỳ-kheo nào? Ngài muốn ai chăm sóc cho xứng ý, và ghi nhớ lời Ngài dạy mà không quên mất ý nghĩa? Có lẽ ta nên nhập Như-kỳ tưởng-định để quán sát tâm niệm của toàn thể đại-chúng”. Nghĩ rồi, Tôn-giả liền thực hành ngay và biết Thế-Tôn muốn chọn Tôn-giả A-Nan-Đà, vì ý Ngài đặt vào A-Nan-Đà; biết vậy xong, Tôn-giả xuất định, và thưa với đại-chúng:

– Chư Tôn-Hiền biết không? Đức Thế-Tôn muốn chọn: Tỳ-kheo A-Nan-Đà làm Thị-giả, bây giờ chúng ta nên cùng nhau đến chỗ Tôn-giả A-Nan-Đà khuyến dụ thầy ấy chịu làm Thị-giả. 

       Bấy giờ Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên và các thầy Tỳ-kheo cùng nhau đến chỗ Tôn-giả A-Nan-Đà, chào hỏi nhau xong, Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên bảo:

– Này Hiền-giả A-Nan, Thầy biết không? Đức Thế-Tôn muốn: đại-chúng Tỳ-kheo cử một thầy làm Thị-giả cho Ngài, đã có hai mươi mốt  Tỳ-kheo từ bậc Trưởng-lão trở xuống tình nguyện xin được làm Thị-giả, nhưng đều bị Đức Thế-Tôn từ chối, không chấp thuận. Tôi đã nhập định để quán sát, được biết Đức Thế-Tôn muốn chọn Thầy làm Thị-giả, vì ý Ngài đặt vào Thầy; Ngài muốn thầy chăm sóc, vì Thầy xứng ý Ngài chứ không phải không xứng ý. Thầy ghi nhớ lời dạy của Ngài mà không quên mất ý nghĩa. 

       Tôn-giả A-Nan-Đà nói:

– Thưa Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên và các vị Tôn-giả, tôi không thể lãnh trách nhiệm hầu hạ Đức Thế-Tôn nổi, vì với Đức Thế-Tôn khó xứng ý, khó hầu hạ, nghĩa là khó làm Thị-giả. Cũng như con voi rất hùng mạnh, kiêu dũng, sức mạnh cường thịnh, đủ ngà, đủ vóc, khó gần gũi, khó làm xứng ý, nghĩa là khó mà coi sóc. Thưa Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên, với Đức Như-Lai cũng lại như thế, khó gần gũi, khó xứng ý, khó làm Thị-giả, vì vậy, tôi không thể làm Thị-giả được. 

       Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên nói:

– Này Hiền-giả A-Nan, thầy hãy nghe tôi nói, người trí nghe thí dụ liền hiểu ý nghĩa của nó, cũng như hoa Ưu-đàm-bát-La đúng thời mới xuất hiện ở thế-gian chứ không phải lúc nào cũng xuất hiện, dù trăm nghìn vạn ức năm cũng chưa chắc xuất hiện. Này Hiền-giả: Đức Như-Lai, Vô-Sở-Trước, Chính-Đẳng Chính-Giác cũng lại như vậy, đúng thời mới xuất hiện ở thế-gian; Thầy nên mau nhận làm Thị-giả của Đức Như-Lai, Thầy sẽ được kết quả rất lớn, và rất tốt đẹp. 

– Thưa Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên, nếu Đức Thế-Tôn thuận cho tôi tám điều nguyện ước thì tôi mới có thể làm Thị-giả, đó là:

1) Tôi nguyện không mặc áo Cà-Sa của Đức Thế-Tôn dù cũ hay mới.

2) Tôi nguyện không ăn thực phẩm do Thiện-tín dâng đến Đức Phật.

3) Tôi nguyện không gặp Đức Thế-Tôn không đúng lúc.

4) Tôi nguyện không ở chung cùng một phòng-thất với Đức Thế-Tôn.

5) Đức Thế-Tôn hoan-hỷ chấp thuận cùng tôi đi đến nơi nào có thí-chủ thỉnh tôi đến.

6) Đức Thế-Tôn hoan-hỷ cho phép tôi được tiến dẫn những vị khách đến xin yết kiến Ngài.

7) Đức Thế-Tôn cho phép tôi đến thưa hỏi mỗi khi có điều hoài nghi phát sinh.

8) Đức Thế-Tôn hoan-hỷ lập lại bài Pháp mà Ngài đã giảng trong lúc không có mặt tôi.  

       Thưa Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên, nếu Đức Thế-Tôn chấp thuận cho tôi tám điều, gồm bốn điều nguyện và bốn điều ước vừa kể, thì tôi mới có thể làm Thị-giả được. 

       Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên sau khi khuyên Tôn-giả A-Nan-Đà nhận làm Thị-giả, Tôn-giả cùng các vị Tôn-giả Tỳ-kheo từ giã Tôn-giả A-Nan-Đà và trở về chỗ Phật. Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên trình lên Đức Phật về sự ưng chịu của Tôn-giả A-Nan-Đà nhận làm Thị-giả với tám điều thỉnh nguyện kể trên và xin Đức Thế-Tôn chấp thuận. 

      Sau khi nghe Tôn-giả Đại Mục-kiền-Liên đọc tám điều thỉnh nguyện của Tôn-giả A-Nan-Đà, Đức Phật bảo:

– Này Đại Mục-kiền-Liên, Tỳ-kheo A-Nan-Đà thông minh, mẫn tiệp, dự đoán sẽ có những lời tị hiềm, như có người nói: “Tỳ-kheo A-Nan-Đà vì áo mặc nên hầu hạ Đức Thế-Tôn”. Hoặc nói: “Tỳ-kheo A-Nan-Đà vì miếng ăn nên hầu hạ Đức Thế-Tôn”. Những dự đoán đó là pháp-vị qúy hóa của Tỳ-kheo A-Nan-Đà, Tỳ-kheo A-Nan-Đà khéo biết thời, biết lúc nào nên đến gặp Như-Lai, lúc nào không nên đến gặp Như-Lai; Tỳ-kheo A-Nan-Đà biết lúc nào chúng Tỳ-kheo, chúng Tỳ-kheo Ni nên đến gặp Như-Lai, đối với chúng Ưu-bà Tắc và Ưu-bà Di cũng như thế; Tỳ-kheo A-Nan-Đà biết lúc nào các Sa-môn, Bà-la-Môn, Phạm-chí, Dị-học nên đến gặp hoặc bàn luận hay không nên đến gặp hoặc bàn luận với Như-Lai. Tỳ-kheo A-Nan-Đà biết thức ăn loại nào Như-Lai dùng rồi sẽ được biện tài thuyết pháp, thức ăn loại nào sau khi dùng rồi sẽ không được biện tài thuyết pháp, đó là những pháp vị đáng khen ngợi của Tỳ-kheo A-Nan-Đà. 

       Do những lời chấp thuận và khen ngợi của Đức Phật, nên ngay ngày hôm sau Tôn-giả A-Nan-Đà bắt đầu làm Thị-giả Phật. Tôn-giả A-Nan-Đà làm Thị-giả Phật cho đến khi Đức Phật nhập Niết-Bàn. Trải qua hai mươi lăm năm làm Thị-giả, Tôn-giả A-Nan-Đà theo Đức Phật đi du-hóa khắp mọi nơi trên đất Ấn-Độ. Tôn-giả rất chuyên cần chăm sóc đến mọi nhu yếu của Đức Phật với một lòng kính ngưỡng và tôn quý. 

2)- A-Nan-Đà bị nạn Ma-Đăng-Già. 

Một hôm Vua Ba Tư Nặc nước Xá Vệ, nhân ngày giỗ của phụ Vương làm lễ trai Tăng. Vua cho sắm sửa các món ăn qúy báu và đích thân Vua đến thỉnh Phật cùng các vị Bồ Tát vào cung thụ trai; ngoài ra, Bồ Tát Văn Thù được Phật chỉ định phân chia đại chúng Tỳ kheo (Tăng) đi dự cúng dàng tại một số nhà Trưởng giả trong thành. Riêng Tôn giả A nan Đà đã được một vị ở xa mời riêng trước nên chưa về kịp để đi thụ trai cùng Tăng chúng. 

     Lúc ấy đang trên đường trở về một mình, Tôn giả không biết việc các Bồ Tát và chúng Tăng đều được Vua và các trai chủ mời vào thành thọ trai. Tôn giả ôm bình bát đi khất thực theo thứ lớp từng nhà đúng theo phép khất thực. Khi lần lượt đi đến một nhà kia, Tôn giả (vì trẻ, lại đẹp trai) bị một người đàn bà dùng bùa yêu tà chú mê hoặc cám dỗ; đang khi người đàn bà ấy còn đang cám dỗ, ve vuốt, và sắp tới giai đoạn hoại giới thể A nan Đà. 

      Khi ấy Phật đã biết việc này, thụ trai xong, Ngài liền cùng các Bồ Tát về ngay, có Vua, các quan Đại thần, Trưởng giả, Cư sĩ đi theo để xin nghe giáo pháp. Vừa  về an tọa xong tại đại giảng đường, trên đầu Phật phóng ra hào quang Bách Bảo Vô úy, trong hào quang nở ra Bảo Liên Hoa nghìn cánh, trên Bảo Liên Hoa có Hóa Phật ngồi kiết già thuyết thần chú. Ngài liền sai Bồ Tát Văn Thù đem chú đi cứu hộ A nan Đà, khi Bồ Tát Văn Thù đem chú đến, tà chú của dâm nữ liền bị tiêu diệt ngay, nên Tôn giả A nan Đà liền hết mê hồi tỉnh; Bồ Tát Văn Thù liền dẫn cả hai người về nơi Phật ngự. 

       Tôn giả A nan Đà vừa về tới nơi liền đảnh lễ Phật, nức nở rơi lệ, nói lời hối hận việc xẩy ra vì do thiếu đạo lực, nên không chống trả nổi tà chú. Để có thể tu hành đủ đạo lực, Tôn giả A nan Đà khẩn khoản thỉnh cầu Phật giảng ba thứ thiền quán mà mười phương Chư Phật đã tu được thành chính giác; vì nhân duyên này, Phật thuyết cho A nan Đà, Vua Ba Tư Nặc, Đại chúng, Bồ Tát nghe Kinh Lăng  Nghiêm.  (Trích Kinh Lăng Nghiêm, Hòa Thượng Thích Duy Lực dịch năm 1993, trang 8 và 9). 

3). Tôn giả A nan Đà đại ngộ. 

     Mặc dù là một đệ tử thông suốt giáo lý, Tôn giả A nan Đà chỉ là bậc hữu học cho đến ngày Đức Phật nhập diệt, Tôn giả vẫn chưa đắc qủa Thánh; sau khi Đức Thế Tôn nhập đại Niết Bàn, Tôn giả Đại Ca Diếp là vị Tổ thứ nhất kế truyền Chính Pháp Nhãn Tạng do Đức Phật phó chúc. 

       Ngày bắt đầu kết tập, chỉ có năm trăm vị A La Hán (Thánh Tăng) mới đủ tư cách kết tập; do đó Tôn giả Đại Ca Diếp cùng các vị Thánh Tăng vào động, còn các vị Tỳ kheo chưa chứng quả Thánh, các Vua, Quan, Cư sĩ, Nhân dân, đều phải ở ngoài. 

       Tôn giả A nan Đà đã là Thị giả của Phật, biết nhiều, nhớ giỏi, nhưng vẫn chưa chứng qủa Thánh nên cũng phải ở ngoài; một trở ngại lớn lao trong việc kết tập là mỗi vị Thánh Tăng chỉ được nghe một phần khi Phật giảng, chứ không vị nào được nghe nhiều như Tôn giả A nan Đà, nên việc kết tập có thể thiếu sót. 

       Do đó, khi bắt đầu kết tập Kinh điển, Tôn giả Đại Ca Diếp nói với các vị Thánh Tăng rằng:

– Tôn giả A nan Đà đã là Thị giả của Phật, ông có nhiều cơ hội gần Phật, thường hằng ngày được nghe giảng dạy. Ông lại là người có trí tuệ rất sáng suốt, mặc dù ông chưa chứng quả Thánh, nhưng hễ ông nghe Chính pháp như mước rót vào đồ đựng, không chút nào dư lại, mà cũng không vương vãi ra ngoài, nếu việc kết tập có ông tham dự sẽ tránh được nhiều điều thiếu sót. 

       Đại hội Thánh Tăng nghe Tôn giả Đại Ca Diếp nói thế, đều im lặng làm thinh, tỏ dấu rằng cũng hợp ý cả, nhưng không biết làm sao để ra ngoài nguyên tắc “Chỉ có Thánh Tăng mới đủ tư cách tham dự kết tập Kinh điển của Phật”. 

       Cũng vì sau khi năm trăm vi Thánh Tăng vào động rồi, thì cửa động được khóa lại. Khi ấy Tôn giả A nan Đà ở bên ngoài cảm thấy tủi hổ cho thân phận vì đã nương nhờ nơi Đức Phật mà được đại chúng nể nang, cho dù có trí nhớ siêu phàm, mà chưa chứng qủa Thánh, cũng không được tham dự kết tập, thật là tủi nhục vô cùng. Bởi vì trong lúc Phật còn tại thế không chịu tinh tấn tu hành, nên mới tủi nhục! 

     Nghĩ vậy, Tôn giả không dằn lòng được sự hối thúc tu hành bèn đến gõ cửa động kêu cầu Tôn giả Đại Ca Diếp mà nói lớn lên rằng: 

– Trong khi Đức Thế Tôn phó chúc và truyền cái áo Cà Sa Kim Lư cho Tôn Huynh (Tôn giả Sư huynh) đó, vậy Đức Thế Tôn còn truyền pháp gì riêng cho Tôn Huynh nữa hay không? 

       Tôn giả Đại Ca Diếp nghe hỏi, liền cất tiếng nói lớn vọng ra:

– A Nan!

        Tôn giả A nan Đà đứng ngoài ứng khẩu thưa:

– Dạ. 

       Tôn giả Đại Ca Diếp liền nói rằng:

– Cây trụ cờ phướn trước cửa đổ rồi! 

       Tôn giả A nan Đà không hiểu tại sao Tôn giả Ca Diếp nói thế với ý nghĩa gì, tại sao lại nói cây trụ cờ phướn đổ rồi? (trong khi cây trụ cờ phướn không đổ) Tôn giả A Nan vô cùng thắc mắc, bèn hỏi lại:

– Cây trụ cờ phướn đâu có đổ, Tôn Huynh nói như vậy có ý nghĩa gì? 

      Bên trong im lặng, không thấy Tôn giả Đại Ca Diếp trả lời, Tôn giả A nan Đà thắc mắc không hiểu: tại sao Tôn Huynh nói cây trụ cờ phướn đổ? Rồi Tôn giả A nan Đà thắc mắc ngày thắc mắc đêm, ăn không được, ngủ không được, và thắc mắc mãi về lời nói ấy (đây là đại nghi tình, đại thắc mắc của Thiền tông mà Tôn giả A Nan không biết là mình đang tham thiền, tìm đọc cuốn “Pháp Môn Đốn Ngộ” của cùng tác giả). 

     Sau bẩy ngày vẫn còn thắc mắc mê man như thế, trong khi Tôn giả đang nghiêng mình nằm xuống về phiá bên tay phải, thì đột nhiên tỏ ngộ (Kiến tánh), và tâm tánh sáng suốt vô cùng. Liền khi ấy, như trút được gánh nặng nghìn cân, vui mừng, Tôn giả vội vàng đến gõ cửa động xin mở cửa để vào báo tin mừng. Tôn giả Đại Ca Diếp biết được nói vọng ra:

– Nếu đã ngộ rồi thì tự vào, sao còn nhờ mở cửa? 

       Tôn giả A nan Đà liền biến mình nhỏ lại chui qua khe cửa mà vào, rồi đảnh lễ Thánh chúng; đại hội Thánh chúng vui mừng đón tiếp Tôn giả A nan Đà đã đại ngộ, và liền cử Tôn giả lên tòa cao ngồi trùng tuyên kết tập Kinh Giáo của Phật! 

4). Tôn giả A Nan Đà làm Tổ thứ hai.

 Còn nữa, Tôn giả nên biết, một hôm Thế Tôn đi kinh hành trong vườn Cam lê, lúc đó tôi thấy Thế Tôn mỉm cười, tôi liền vái mà hỏi: “Như Lai không cười vô cớ, xin Ngài giải thích cho sự mỉm cười vừa rồi”. Phật bảo tôi rằng: 

     “Ở đời qúa khứ trong Hiền kiếp này (trong chu kỳ hiện Trụ của qủa đất đã được khoảng 142 triệu năm rồi), có một vị vua tên Ma Ha Đề Bà, dùng chính pháp cai trị, vua có đủ bảy báu là Xe báu, Voi báu, Ngựa báu, Châu báu, Ngọc nữ báu, Cư sĩ báu, và Chủ binh báu, Vua lấy đức trị dân trong thời gian lâu dài. Khi ấy, vua bảo người thợ hớt tóc rằng: “Nếu trên đầu ta có tóc bạc hãy cho ta hay”. Người hớt tóc nghe lệnh vua, qua một số năm, thấy đầu vua có tóc bạc, liền tâu vua: “Thưa Đại Vương, đầu Ngài đã có tóc bạc mọc rồi”. Vua bảo người ấy nhổ sợi tóc bạc ấy để lên tay vua. Khi vua trông thấy tóc bạc liền tự nói: “Trên đầu ta có tóc bạc là báo hiệu già sắp chết, nên ta phải xuất gia tu đạo”.   Bấy giờ vua bảo Thái tử lớn nhất là Trường Thọ: “Con biết chăng, tóc ta đã bạc, ý ta muốn xuất gia học đạo để lià các khổ, con hãy nối ngôi ta, lấy chánh pháp giáo hóa cai trị, chớ sai lời ta dạy, vì nếu sai lời ta dạy thì sẽ ở trong khổ sở sau này”. 

      Sau khi truyền ngôi, vua đến nơi thanh tịnh, cạo bỏ râu tóc, khéo tu phạm hạnh, hành 4 đẳng tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, đến khi mạng chung sinh lên cõi Trời Phạm Thiên. 

      Vua Trường Thọ nhớ lời cha dạy, dùng chính pháp cai trị, cũng làm Chuyển luân Thánh Vương. Rồi cũng dùng đường lối của vua cha, khi có tóc bạc liền dặn bảo và truyền ngôi cho con trưởng là Thiện Quán, và cũng tu hành y như vua cha, kết cục khi mạng hết cũng sinh lên cõi Phạm Thiên. 

      Vua Thiện Quán cũng làm theo lời dạy của cha ông, dùng chính pháp cai trị, làm Chuyển Luân Thánh Vương, cũng có bảy báu v.v… 

      Tôn huynh nên biết, Vua Ma ha Đề Bà khi đó đâu phải người nào xa lạ, vua bấy giờ nay là Phật Thích Ca. Vua Trường Thọ nay là thân A Nan đây, còn vua Thiện Quán lúc đó nay là Tỳ kheo Ưu Đa La, đã từng nhận Vương pháp chưa từng bỏ mất, cũng chẳng dứt. Vua Thiện Quán đã làm hưng phục lệnh vua cha, dùng chánh pháp cai trị, chẳng dứt lời vua cha dạy, vì lời dạy của phụ vương khó làm trái được; tôi quán nghĩa này nên đem Tăng Nhất trao cho Tỳ kheo Ưu Đa La.    

      Sau khi Tôn giả Đại Ca Diếp đến núi Kê Túc nhập diệt định để chờ Đức Phật Di Lặc ra đời thấy thân áo bát, Tôn giả A Nan Đà đi truyền Chính Pháp khắp nơi, và hóa độ chúng sanh rất nhiều. 

       Một lần, Tôn giả A Nan Đà đến tịnh xá Trúc Lâm thì nghe một vị Tăng tụng bài kệ rằng:                           

Nếu người sống trăm tuổi,

Không thấy thủy lão hạc.

Chẳng bằng sống một ngày,

Được trông thấy tận mắt.

     Tôn giả bèn kêu vị Tăng ấy mà bảo rằng :

– Bài kệ của thầy đọc đó không nhằm nghĩa của Phật nói. Thầy nên đọc lại như thế này mới đúng:            

Nếu ngưòi sống trăm tuổi,

Không biết pháp sinh diệt.

Chẳng bằng sống một ngày,

Mà biết pháp sinh diệt. 

       Khi Tôn giả đi rồi, Chủ trì nghe vị Tăng thưa lại, bèn nói rằng:

– Ông A Nan Đà già cả lẫn lộn, nên bày không trúng, đừng tụng theo mà sai lầm. 

      Ngày khác Tôn giả trở lại, cũng nghe vị Tăng ấy tụng sai lầm y như bữa trước, Ngài hỏi lại mới biết rằng thầy Chủ trì cản trở, Tôn giả tự nghĩ: “Cái bệnh ngu si của người ta thật khó hóa độ”. Ngài liền nhập định mà cầu bậc Tôn Thánh làm chứng, bỗng đâu đất liền chấn động, ánh sáng chói lòa phát chiếu, rồi có một vị Đại sĩ xuất hiện ngay bên vị Tăng và nói:

– Bài kệ ngươi tụng không phải ý của Chư Phật, nay gặp Tôn giả A Nan Đà chỉ bảo thì ngươi phải tuân theo mới được. 

       Vị Đại sĩ nói xong liền biến mất, vị Tăng thấy vậy thất kinh, liền phát tâm cung kính mà tụng bài kệ theo lời dạy của Tôn giả. Về sau vị Tăng ấy chứng qủa thứ nhất Tu Đà Hoàn và bậc thứ hai là Tư Đà Hàm, chỉ còn tái sinh lại làm người một lần, rồi tu tiếp để đạt bậc thứ ba A Na Hàm và bậc thứ tư A La Hán là đạt giải thoát. 

5). Tôn giả A Nan Đà nhập diệt.

 Về sau, một hôm, Tôn giả A Nan Đà nhớ lại lời thỉnh cầu của Vua A xà Thế rằng: “Khi nào Tôn giả nhập Niết Bàn thì cho Vua hay trước”, nên Tôn giả đi đến gặp người Thủ môn canh giữ cổng thành Hoàng cung mà nói rằng:

– Ta là A Nan Đà sắp nhập Niết Bàn, nên tới đây báo cho Vua A xà Thế biết. 

       Quan Thủ môn thưa rằng:

– Bây giờ Thánh Thượng còn đang an giấc, nên chưa dám thưa trình.

       Tôn giả bảo vị quan ấy:

– Thôi được, khi nào đức Vua thức dậy ông thưa trình cũng được. 

       Nói xong, Tôn giả từ biệt nước Ma kiệt Đà, rồi ngồi thuyền ra sông Hằng mà qua xứ Phệ xá Ly; trong khi ấy, Vua A xà Thế ngủ trên Long Sàng, và Ngài đang trong giấc mộng chiêm bao. Vua mơ thấy một Bảo Cái có treo bảy món báu vật, xem rất trang nghiêm rực rỡ, Vua còn mơ thấy có vô số người đang ngưỡng mộ lễ bái Bảo Cái; thình lình một trận mưa gió bão đùng đùng nổi lên rất là dữ tợn, làm cho các món trân bảo, anh lạc đều rơi rớt tứ tung cả; Vua thấy vậy thì trong lòng kinh sợ, vì kinh sợ nên giật mình thức dậy, và lúc ấy mới biết là chiêm bao. 

       Trong lúc Vua còn đang ngồi suy nghĩ điềm mộng ấy hung kiết thế nào, thì bỗng có quan Thủ môn đến tâu trình sự việc Tôn giả A Nan Đà đến cáo biệt, và đã đi đến xứ Phệ xá Ly để nhập Niết Bàn rồi. Vua nghe xong liền khóc rống lên một cách thảm thiết, và Vua lập tức truyền lệnh cho ngựa xe cấp tốc thân hành đi mà yêu cầu Tôn giả trở lại. 

       Khi tới bờ sông Hằng, Vua trông thấy Tôn giả A Nan Đà đang ngồi Kiết già trong một chiếc thuyền ở giữa dòng sông, Ngài đứng nơi mé bờ sông mà đảnh lễ Tôn giả, và kêu lớn lên rằng:

– Xin Tôn giả thương tình xứ Ma kiệt Đà mà trở lại, và xin đừng vội nhập diệt.

      Còn về Vua xứ Phệ xá Ly, vì một nhân duyên được nghe tin Tôn giả A Nan Đà đến nước mình, nên đem binh tới bờ sông Hằng mà chực rước, nhà Vua ở nơi bờ sông bên kia, ngó qua mà lễ lạy Tôn giả, và kêu lớn lên rằng:

– Thỉnh cầu Tôn giả ghé qua bờ sông nước Phệ xá Ly chúng tôi, để tạm thọ lễ cúng dường xong Ngài hãy nhập Niết Bàn. 

       Khi thấy hai Vua đều có lòng buồn rầu quyến luyến, Tôn giả A Nan Đà an ủi:

– Niết Bàn là một cảnh an tịnh, cứu cánh, xin hai vi Đại Vương đừng lấy sự sống chết thường tình mà sầu thảm. Chốc lát nữa đây, tôi sẽ độ cho năm trăm vị Tiên, và truyền trao Chính Pháp, sau đó tôi sẽ nhập diệt tại giữa dòng sông này, để lấy lòng bình đẳng mà hóa độ. 

       Tôn giả vừa nói dứt, thì năm trăm vị Tiên ở núi Tuyết sơn (Hy Mã Lạp Sơn) dùng thần thông mà đi trên không đến đảnh lễ Tôn giả và thưa:

– Chúng tôi tu Tiên ở núi Tuyết sơn đến đây, nguyện nhờ Tôn giả A Nan Đà mà chứng Phật qủa, xin Ngài từ bi độ thoát cho chúng tôi.

       Tôn giả A Nan Đà nói:

– Ta đang đợi các ông đây. 

       Nói xong, Tôn giả thị hiện thần thông làm mặt nước sông Hằng biến hóa ra một giải đất liền, mặt toàn là vàng ròng rực rỡ; Ngài bảo các vị Tiên hạ xuống mà ngồi, rồi Ngài thuyết pháp Đại thừa cho Tiên chúng nghe, thuyết pháp xong, Tôn giả nói:

– Các đệ tử trước kia của ta chắc cũng sắp đến đây. 

       Tôn giả vừa nói xong, thì năm trăm vị A La Hán dùng thần thông đi trên không đến đảnh lễ; Ngài liền yêu cầu các vị A La Hán độ cho các vị Tiên xuất gia, và thọ Cụ túc giới; xong việc truyền Giới, Tôn giả chọn một vị Tiên là Thương Na Hòa Tư đã đắc A LA Hán mà bảo rằng :

– Xưa Đức Thế Tôn đem Chính Pháp Nhãn Tạng mà phú chúc cho Tôn giả Đại Ca Diếp Sư huynh ta, rồi sau truyền lại cho ta. Nay ta phó chúc cho ông, vậy ông phải hết lòng trân trọng lãnh (lĩnh) thọ mà hộ trì, hầu ngày sau siển dương Phật Pháp mà hóa độ cho chúng sanh; hãy nghe ta nói kệ mà ấn tâm:

Lâu nay phú có pháp,

Phú rồi nói không pháp,

Thảy đều tự mình ngộ,

Ngộ rồi không không pháp.

       Sau đó Tôn giả kêu vị Tiên tên Mạt Điền Để Ca cũng đã đắc A La Hán mà dặn rằng:

– Lời thụ ký trước của Đức Thế Tôn có nói: “Sau khi Như Lai nhập diệt năm trăm năm, thì ông phải đến nước Kỳ Tân mà truyền Đại Pháp, để độ thoát cho loài hữu tình”. 

       Xong việc truyền Pháp và dặn dò, Tôn giả bảo một nghìn đệ tử trở về, rồi Ngài thu hồi thần thông để mặt sông trở lại mặt nước như cũ. 

       Vì cả hai nước đều hết lòng kính phụng và mong muốn được giữ Xá Lợi của Tôn giả, nên Ngài  bảo các đệ tử sau khi Ngài nhập diệt rồi thì trà tỳ, lấy Xá lợi chia cho hai nước, cõi Trời Đao Lợi và Long cung; rồi Ngài ngồi kiết già trong thuyền ngay giữa dòng sông mà tịch. Khi ấy chư Thiên và Long Vương tới lễ bái, và rải hoa cúng dường; Vua hai nước và Thần Dân hai bên bờ thấy thế thì tất cả đều qùy lễ và chảy nước mắt; các đệ tử sắp đặt việc trà tỳ và phân xá lợi để xây dựng Bảo Tháp cúng dường đời đời. Khi ấy Tôn giả A nan Đà đã 120 tuổi thọ..,.

Toàn Không

 

 

 

Leave a Reply

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.