
MA VƯƠNG THÁCH ĐẤU VỚI BỒ TÁT
Bài này có bốn phần như sau:
PHẦN MỘT: NGUYÊN NHÂN:
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ, bấy giờ Ngài nói với các Tỳ Kheo (Tăng) rằng thuở xưa, khi còn là Bồ Tát, chưa thành Phật đạo:
Ta ngồi dưới gốc cây suy nghĩ: “Trong cõi Trời Dục giới và loài Người, ai tài trí nhất, Ta sẽ hàng phục”. Ta lại nghĩ: “Nghe nói, trong cõi Trời Dục giới có Đại Ma Vương là ghê gớm nhất, ta sẽ chiến đấu với Ma Vương ấy. Do hàng phục Đại Ma Vương, tất cả chư Thiên và loài người kiêu mạn, đều sẽ bị hàng phục”.
Khi nghĩ như thế rồi, ngay nơi tòa ngồi, Ta mỉm cười, khiến cảnh giới cõi Thiên Ma chấn động, rồi nghe tiếng nói trong hư không:
“Nay ta hợp binh chủng,
Đến thăm Sa Môn kia,
Nếu không theo ý ta,
Nắm chân ném ra biển”.
Khi ấy Đại Ma Vương sân hận bừng bừng, bảo Đại tướng Sư Tử: “- Đại tướng, mau tập hợp bốn bộ binh tướng, đi dẹp Sa Môn, xem ông ấy có thế lực gì mà dám chiến đấu với ta?”
Ta lại suy nghĩ: “Giao chiến với người thường còn không thể im lặng, huống chi với Đại Ma Vương”. Nên Ta mặc áo giáp “Nhân từ”, tay cầm cung “Chính định”, tên “Trí tuệ” chờ đợi.
Chẳng bao lâu sau đó, Đại Ma Vương, Đại Tướng, quân binh đủ loại đông đảo, một triệu tám trăm nghìn (18 ức), đến chỗ Ta. Binh chúng Qủy La Sát, hoặc một thân có vô số đầu, hoặc nhiều thân có một đầu. Hoặc hai vai ba cổ, hoặc ở ngực có miệng lớn, hoặc một tay, hai tay, bốn tay.
Hoặc hai tay bê đầu miệng ngậm thân rắn, hoặc trên đầu bốc lửa, miệng phun lửa. Hoặc phanh bụng đi tới, tay cầm dao tay cầm kiếm, tay cầm gươm tay cầm giáo, tay cầm chày tay cầm cối. Hoặc vác đá, vác cây, hoặc đi bằng hai tay. Hoặc cưỡi voi, cưỡi sư tử, cưỡi hổ, mang độc xà, hoặc đi hoặc chạy hoặc bay v.v….
Tất cả tiến đến, vang động rầm rầm, chung quanh cây đại thọ nơi Ta ngồi. Đại Ma Vương đứng trước mặt nói:
“– Sa Môn, hãy đứng lên”
Ta im lặng chẳng trả lời. Đại Ma Vương nói như thế ba lần, rồi lại nói:
“– Sa Môn sợ ta chăng?”
Ta bảo Đại Thiên Ma:
“– Nay Ta nhiếp tâm không có một chút kinh sợ”
Đại Thiên Ma nói:
“– Ông có một mình không khí giới, binh đao, thân trơ đầu trọc, mà nói: “Ta không sợ”, Sa Môn có thấy bốn binh chúng của ta không?
Ta liền nói kệ:
“Ta mặc áo giáp nhân từ,
Cung chính định tên trí huệ,
Dùng phúc nghiệp làm binh chúng,
Nay quân ông sẽ bị hoại”.
Đại Thiên Ma nói:
“– Nếu không nghe lời ta, ông sẽ bị đốt cháy, mau rời chỗ này. Sa Môn đẹp đẽ, dòng Vua Chúa, ta sẽ để ông làm Đại Vương”.
Ta trả lời:
“– Những lời ông nói đều là vô thường, thay đổi hư hoại, chẳng phải điều Ta ưa”.
Đại Thiên Ma lại nói:
“– Sa Môn muốn điều gì, chí nguyện việc chi?”
Ta đáp:
“– Điều Ta ước nguyện là được an ổn tịch tĩnh trong thành Niết Bàn, dẫn dắt chúng sinh đang trôi nổi chìm đắm trong khổ não đến con đường chính đạo”.
PHẦN HAI: BỒ TÁT CHIẾN ĐẤU VỚI ĐẠI MA VƯƠNG:
Đại Thiên Ma lại nói:
“– Nếu như Sa Môn không mau mau đứng lên, ta sẽ nắm chân ông ném xuống biển.”
Ta liền đáp:
“– Ta tự quán sát, tất cả Trời, Ma, Người, chẳng thể động đến lông chân của Ta”.
Đại Thiên Ma thách đấu:
“– Ông muốn chiến đấu với ta chăng?”
Ta đáp:
“– Ta muốn cùng ông giao chiến”.
Đại Thiên Ma hỏi:
“– Ông ghét điều gì?”
Ta đáp:
“– Ta trừ dẹp những điều kiêu mạn là khoác lác, huyênh hoang, tự cao, tự đại; như tăng thượng mạn kém người cho là bằng người, hoặc bằng người cho là hơn người. Hoặc tự mạn có chút ít cho là có đầy đủ, hoặc tà mạn là kiêu hãnh về sự sai quấy của mình”.
Đại Thiên Ma hỏi:
“– Ông dùng điều gì để diệt các mạn đó?”
Ta đáp:
“– Do Từ tam muội được Bi tam muội, là do một lòng Từ, muốn cho chúng sinh vui, nên có được hết lòng thương yêu cứu khổ chúng sinh (là Bi).
Do Bi tam muội được Hỉ tam muội, là do một lòng thương yêu cứu khổ chúng sinh, chúng sinh vui, nên vui theo (là Hỉ).
Do Hỉ tam muội được Xả tam muội, là một lòng vui (là Hỉ) khi chúng sinh vui. Nhưng cho vui cứu khổ mà như không làm (là Xả), không dính mắc một việc gì, tâm luôn luôn thanh tịnh là tâm Không.
Do Không tam muội được Vô nguyện tam muội, là do tâm Không, trống rỗng trong sáng, nên không có một mong muốn, ước vọng nào (là Vô Nguyện).
Do Vô nguyên tam muội được Vô tướng tam muội, là do không có mong muốn, ước vọng (là Vô Nguyện) nên không có một hình bóng nào trong tâm (là Vô Tướng).
Do sức của các tam muội này chiến đấu với ông”.
Vì do sức tam muội, trong Đại Định rải tâm Từ Bi Hỉ Xả, Không Vô Nguyện Vô Tướng tam muội ấy, Ma Vương chẳng thể làm gì được, chẳng thể chen vào tâm phá hại vậy.
Ta nói tiếp:
“– Hành tận ắt khổ tận, là khi diệt trừ hết các ý muốn, không còn ý niệm mong muốn, không còn khởi sinh các việc tạo tác (là Hành tận). Như diệt trừ hết các việc: được mất, đúng sai, phải trái, vui buồn v.v…, thì không còn muốn được, muốn đúng, muốn phải, muốn vui, v.v… nghĩa là không còn tranh giành, sẽ hết khổ (gọi là Khổ tận).
Khổ tận ắt kết tận, là khi hết buồn khổ rồi (là Khổ tận) thì không còn bị sự nọ việc kia dính mắc, ràng buộc (gọi là Kết tận).
Kết tận ắt Niết Bàn, là do không bị dính mắc ràng buộc (là Kết tận) nên được giải thoát mọi sự (gọi là Niết Bàn).”
PHẦN BA: ĐẠI MA VƯƠNG HÀNG PHỤC BỒ TÁT:
Đại Ma Vương hỏi:
“– Có thể dùng pháp diệt pháp chăng?”
Ta trả lời:
“– Có thể dùng pháp diệt pháp được.”
Đại Ma Vương lại hỏi:
“– Thế nào là dùng pháp diệt pháp?”
Ta giải thích:
“– Lấy chánh diệt tà, lấy tà diệt chánh”.
“– Trong Bát Chjánh Đạo, lấy Chánh diệt Tà,
Như dùng Chánh kiến diệt tà kiến, là dùng cái thấy chân chánh đúng sự thật (Chánh kiến) để diệt trừ cái thấy sai lệch (Tà kiến) do ái dục sinh ra.
Dùng Chánh tư duy diệt Tà tư duy, là suy nghĩ chân chánh (Chánh tư duy) để diệt trừ ý nghĩ sai sót (Tà tư duy) do tham sân thúc đẩy.
Dùng Chánh ngữ diệt Tà ngữ, là lời nói chân chính, lời thật thà, ngay thẳng, công bình (Chánh ngữ) để diệt trừ lời nói sai sự thật, nói dối, nói xuyên tạc, nói thêu dệt, nói ác (Tà ngữ).
Dùng Chánh nghiệp diệt Tà nghiệp, là hành động chân chính đúng với chân lý lẽ phải (Chánh nghiệp) để diệt trừ những hành động sai quấy đưa đến khổ đau cho chúng sinh (Tà nghiệp).
Dùng Chánh mạng diệt Tà mạng, là cách mưu sinh chân chính (Chính mạng) để diệt trừ sinh sống bằng nghề bất chánh, như nghề trộm cướp, gá bạc, hãm hại, mối lái dâm dục, v.v… (Tà mạng).
Dùng Chánh tinh tấn diệt Tà tinh tấn, là siêng năng chuyên cần không lười mỏi (Chánh Tinh tấn) để diệt trừ sự lười biếng, giả bộ siêng năng (Tà tinh tấn).
Dùng Chánh niệm diệt Tà niệm, là nhớ nghĩ điều hay lẽ phải lợi người (Chính niệm) để diệt trừ những nhớ nghĩ hại người (Tà niệm).
Dùng Chánh định diệt Tà định. là tập trung tâm ý, tư tưởng vào một mục tiêu như ly dục lìa ác, kiên cố nhiếp trì, nhất tâm thiền định (Chính định) để diệt trừ các việc ngẫm nghĩ điều ác độc, hại người (Tà định).
Đó là lấy Chánh diệt Tà. Diệt hết Tà thì hết Vô minh, hết Vô minh thì được Giải thoát.
Còn lấy Tà diệt Chánh, như do ái dục nên có Tà kiến, thấy sai mà cho là đúng để tiêu diệt Chánh kiến. Tà Tư duy, Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng, Tà Tinh tấn, Tà Niệm và Tà Định, cũng như vậy. Việc lấy Tà diệt Chánh thường xảy ra vì do Vô minh mà có.
Đó là dùng pháp diệt pháp.
Đại Thiên Ma Vương lại nói:
“– Sa Môn hôm nay, tuy có những lời như thế, ở chỗ này khó khắc phục, ông mau đứng lên, đừng để ta nắm chân ném ra biển”.
Ta lại bảo Đại Ma Vương:
“– Xưa kia Ta tạo công đức vô kể, còn ông chỉ tạo phúc có một lần, được làm Đại Ma Vương cõi Trời Dục giới, nên lời của ông khó thực hiện được”.
Đại Ma Vương đáp:
“– Ông tự xưng đã tạo vô số phúc đức, đó chỉ mình ông biết, ai có thể chứng cho ông?”
Lúc ấy, đang ngồi, Ta duỗi bàn tay phải thẳng xuống dưới, đồng thời bảo Đại Ma Vương:
“– Công đức Ta đã tạo, Địa Thần cũng biết”.
Ta nói dứt lời, Địa Thần từ dưới đất vọt lên chắp tay thưa:
“– Bạch Ngài, con chứng biết công đức của Ngài”.
Địa Thần vừa nói xong, Đại Ma Vương buồn rầu khổ não, liền biến mất cùng với bốn binh chúng Ma.
PHẦN BỐN: CHÍNH PHÁP CÒN PHẢI BỎ, HUỐNG LÀ TÀ PHÁP:
Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ Kheo:
– Này các Tỳ Kheo, nếu các thầy đi đường bị bắt giữ, nên nhiếp tâm ý, đừng khởi niệm ác. Giữ tâm như đất, đất nhận vật sạch, cũng nhận vật dơ, xấu xa đều nhận hết. Song đất chẳng khởi tâm, chẳng khởi tăng giảm, không nói rằng: “Đây là xấu, kia là tốt”.
Ví thử: bị bắt giữ giam cầm, chớ suy nghĩ ác, chớ khởi tâm hơn thua, như đất, nước, gió, lửa, xấu tốt đều nhận không tăng giảm. Khởi tâm Từ Bi Hỉ Xả đối với tất cả chúng sinh, tại sao? Vì thiện pháp còn phải bỏ, huống là ác pháp.
Ví như người có sự sợ hãi, đang khi muốn trốn nguy hiểm, gặp con sông sâu rộng, cũng không có thuyền bè qua lại để có thể sang bờ bên kia an toàn.
Bấy giờ người ấy suy nghĩ tính toán: “Không có thuyền bè qua lại, ta không thể bơi qua con sông lớn như thế này, ta nên thu nhặt cây cối cỏ lá kết buộc lại thành bè để qua sông”. Bấy giờ người ấy liền thực hiện và từ bờ này sang được bờ kia.
Khi người ấy đã qua bờ bên kia rồi, lại nghĩ: “Cái bè này có nhiều lợi ích cho ta, do bè ta đã thoát khổ nạn, nay ta không nên bỏ bè, đi đâu ta cũng mang theo”.
Thế nào, người ấy có thể vác bè theo hay không nên?
– Bạch Thế Tôn, không nên, nguyện vọng của người ấy đã xong, không nên vác theo làm gì.
Đức Phật bảo:
– Đó là pháp thiện còn phải bỏ, huống là pháp ác.
Đức Phật nói tiếp:
– Nghĩa là ngay nơi kiêu mạn diệt kiêu mạn, kiêu mạn đã diệt tận, không còn một niệm tưởng não loạn. Ví như da con chồn thuộc kỹ, thuộc cho thật mềm mại, khi cuộn lại không còn tiếng kêu sột soạt, không còn chỗ cứng cộm nữa. Tỳ Kheo chấm dứt kiêu mạn cũng như thế.
Bởi thế cho nên Ta bảo: “Ví thử bị giặc bắt giam cầm, chớ khởi tâm ác, nên đem lòng Từ ban khắp, bèn được chỗ Vô Vi lâu dài”.
LỜI BÀN:
Nghe xong bài Kinh, chúng ta rút ra được bài học gì? Bản tính của Ma là đe dọa dụ dỗ, ngăn cản làm tốt lành, xúi dục làm quấy ác. Như khích động tính tham sân si, gây cho người bị thương tổn, sầu lo, sợ hãi. Còn Bồ Tát ngược lại, diệt tính xấu, như trừ tham sân, tật đố, kiêu mạn, tăng thượng mạn, tà mạn. Lấy chánh diệt tà, hủy bỏ mong cầu tạo tác, để hết dính mắc ràng buộc, hầu đạt giải thoát.
Ngoài ra, đối với Giáo pháp dù hay, cũng chỉ là phương tiện, cho người học đạo, giống như cái bè cho người qua sông vậy. Thí dụ trong việc làm lành là chính, làm ác là tà, nhưng nếu khi ta làm lành mà cứ để tâm dính mắc vào việc làm thiện. Mà không lo tu hành, thì sự dính mắc làm việc lành này sẽ cản trở trong việc giải thoát, do đó Đức Phật bảo: “Chính pháp còn phải bỏ, huống là tà pháp”, là vậy.,.