HÀNH TRÌNH THÀNH ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA

PHẬT PHÁP

Lê Sỹ Minh Tùng

Một hôm vì quá kiệt sức, Thái tử Tất-Đạt-Đa ngã quỵ bên dòng sông Ni Liên (Neranjara) và khi tỉnh dậy Ngài mới tỉnh ngộ mà nhận thấy rằng lối tu khổ hạnh chỉ hành hạ thân xác mà không giải thoát được gì. Thái tử nghĩ rằng những rối rắm và những căn nguyên của sự đau khổ không phải là từ bên ngoài mà chính là khả năng để từ bỏ những dục vọng từ trong tâm. Vì nhận thức như vậy, Thái tử quyết định chọn một con đường mới để đi tìm sự giải thoát và Ngài gọi nó là con đường trung đạo. Dựa theo con đường trung đạo này, Ngài đã dùng Giới, ĐịnhTuệ để tiêu diệt những ô nhiễm ở trong tâm thức và sau cùng trừ hết các căn bản bất thiện tức là ly dục, ly bất thiện pháp. Khi Thái tử quyết định như thế, năm nhà tu khổ hạnh trước đây theo Ngài đã từ bỏ Ngài và gọi Ngài là người bỏ cuộc vì không tiếp tục tu hành theo như trước. Sau 5 năm tu khổ hạnh không đạt kết quả, Ngài nhận thấy rằng sức mạnh của cơ thể là một điều rất cần thiết cho thiền định nên Ngài liền xuống sông Ni Liên tắm rửa và bắt đầu trì khai khất thực. Mặc dù tấm thân tứ đại là vô thường, nhưng Ngài vẫn cần nó như là chiếc thuyền để đưa Ngài đến bên kia bến bờ Giác ngộ.

Sau khi thọ bát cháo sữa do một thôn nữ tên là Sujata cúng dường, sức khỏe của Ngài lần hồi khôi phục. Rồi Thái tử đi đến dưới gốc cây Tát-bạt-la (Pippala: sau này được gọi là cây Bồ-đề, có nghĩa là cây Giác ngộ), ngồi tĩnh tọa dưới cây Bồ-đề trên một nắm cỏ khô, tham thiền và thề rằng:

Nếu ta ngồi đây mà không chứng được đạo quả, thì dù thịt nát xương tan, ta quyết không bao giờ đứng dậy”.  

  Rồi Thái Tử bắt đầu tư duy: “Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc dòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”. Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: “Ðạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?” Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: “Ðây là đạo lộ đưa đến giác ngộ“.

Trước khi vào định của sơ thiềnhành giả thực tập “Ly dục ly bất thiện pháp” nghĩa là phải sống đời đạo hạnh, lìa xa ái dục và những tham vọng của thế gian để tâm được an tịnh. Ly dục là thoát ly những đối tượng của ái dục, tức là thân viễn ly. Còn “ly bất thiện pháp” là từ bỏ những cấu uế (dục vọng) của tâm tức tâm viễn ly. Nói cách khác, ly dục là thanh tịnh thân nghiệp, ly bất thiện pháp là thanh tịnh ý nghiệp. Sau đó, hành giả thực hành pháp quán niệm hơi thởtheo dõi hơi thở vào, hơi thở ra dài ngắn như thế nào và biết rõ như vậy nghĩa là lúc ấy hành giả đang ý thức và nhận biết chính mình. Hơi thở đối với sự sống con người là tối quan trọng. Con người có thể nhịn ăn, nhịn uống trong một thời gian dài, nhưng mạng sống sẽ kết thúc nếu thiếu thở trong vài phút đồng hồ. Chúng ta thở suốt ngày suốt đêm, nhưng ít khi chúng ta nắm bắt được hơi thở của mình. Con người vì quá bận bịu lo cho cái ăncái mặc mà quên đi tính diệu dụng của hơi thở. Hơi thở vô hấp thụ theo dưỡng khí và từ đó tim sẽ chuyển dưỡng khí đi nuôi khắp thân thể, sau đó thán khí sẽ chuyển ngược về tim và phổi sẽ đẩy nó ra ngoài khi chúng ta thở ra. Vì vậy, hít vô, thở ra chính là sự sống của con người. Khi lo lắng, cáu giận làm cho tim đập nhanh, phổi khó hấp thu không khí, thì chính lúc này việc nắm bắt hơi thở là rất  quan trọng giúp ta lấy lại trạng thái bình tĩnh của tâm và điều hòa của thân. Khi hơi thở và thân thể được điều hòa thì trạng thái an tịnh của thân sẽ sanh khởi.

Thật ra, việc hít vàothở ra sâu cạn chưa phải là điều quan trọng. Điều quan trọng hơn cả là ta có ý thức được trong khi thở. Đức Phật dạy khi hít vàothở ra chúng ta phải ý thức theo dõi hơi thở ấy. Hơi thở ra dài, ngắn thì phải biết là dài, ngắn thật sáng suốt và tỉnh táo. Ngày nay trong cuộc sống văn minh hiện đại, con người hoạt động như con thoi trong khung cửi. Tuy nhiên, chúng ta có thể thực tập pháp quán niệm hơi thở để đem lại sức khỏe cũng như năng suất công việc. Ở mức độ cao hơn, nó giúp hoàn thiện và phát triển trí lực.

Ngày xưa Đức Phật dùng phương pháp Quán Niệm Hơi Thở để có thể nhập  và xuất định. Nhờ phương pháp Quán Niệm Hơi Thở, Đức Phật chứng ngộ Niết Bàn và sau khi thành đạo, Ngài đã giảng dạy phương pháp này cho tất cả mọi người cho đến khi Ngài nhập diệt. Lý do thực hành Quán Niệm Hơi Thở là vì chúng ta muốn chứng nghiệm thực tại tối hậu. Khi chú tâm vào hơi thở, chúng ta khám phá những gì mà chúng ta chưa biết về mình nghĩa là tìm ra ý thức những gì hãy còn trong vô thức. Nói cách khác, pháp môn Quán Niệm Hơi Thở có thể như là cây cầu nối tâm ý thức và tâm vô thức bởi vì hoạt động của hơi thở vừa có tính cách ý thức và vừa có tính cách vô thức. Khi vào định, chúng ta có thể kiểm soát hơi thở hoặc điều khiển hơi thở theo ý muốn của mình. Cao hơn nữa, hành giả có thể ngừng thở một thời gian. Nhờ duy trì ý thức về hơi thở, tự nhiên chúng ta bắt đầu ý thức được các chức năng hoạt động của thân thể mà trước đây chúng ta không hề hay biết (vô thức). Nhờ đó, chúng ta thật sự thâm hiểu sự vận hành trong ta (danh, sắc) nhằm giải thoát khỏi thamsânsi bằng cách ý thức chúng rất rõ ràng. Do đó, hơi thở phản ảnh rất rõ tâm trạng của con người. Khi tâm bình yên, thanh thoát, hơi thở đều và nhẹ. Ngược lại, khi tâm bị các trạng thái tiêu cực xâm chiếm, hơi thở nặng nề, thô tháo. Vì thế khi tâm bất an, lo lắng, buồn phiền chỉ cần ngồi yên lặng, hít thở thật mạnh vài lần rồi sau đó thở đều và nhẹ thì mọi buồn phiền sẽ lắng diệu ngay, giúp ta lấy lại trạng thái bình tĩnh của tâm và điều hòa của thân. Khi hơi thở và thân thể được điều hòa thì trạng thái an tịnh của thân sẽ sanh khởi.

Sau khi hơi thở đã đều đặn, hành giả có thể chọn hai con đường: một là đi theo thiền định (Samadhi Meditation) hay là đi theo thiền quán (thiền trí tuệ)(Insight Meditation)(Vipassana Meditation). Ở đây Đức Phật chọn thiền định tức là đi vào Tứ thiền định. Sau khi đắc Tứ thiền, Đức Phật mới thực hành Thiền quán. Đức Phật là người đầu tiên của nhân loại đã khám phá ra thiền quán và từ đó thiền quán được xem như là cốt lõi về hành thiền mà Đức Phật đã dạy cho đệ tử trong suốt 45 năm hành đạo của Ngài.

Từ đó, Thái Tử thiền định suốt 49 ngày đêm, chứng tứ thiền như sau:

1)Sơ thiền (First Jhana): Này Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. ” 

Tiến trình thực tập bài kinh “Quán niệm hơi thở”Trước hết hành giả chuẩn bị tư thế ngồi, điều chỉnh thân thể, điều chỉnh hướng Tâm và sau cùng là thực tập và kiểm soát hơi thở. Hơi thở vô dài hay hơi thở ra dài, nhận biết chúng. Hơi thở vô ngắn hay hơi thở ra ngắn nhận biết chúng.

Khi tâm cột chặt vào hơi thở thì Đức Phật gọi giai đoạn này là “Định có Tầm có Tứ” “Savitakka savicara Samadhi”. Tầm là hướng tâm vào đối tượng và Tứ là bám chặt tâm trên đối tượng ấy. Đối tượng mà Đức Phật nói ở đây chính là bám chặt lấy hơi thở của chính mình cho đến khi không còn vọng tâm thì bây giờ hành giả có Tầm có Tứ. Vì còn bám vào hơi thở nên tâm vẫn còn biết nhưng chỉ biết có một niệm nên Đức Phật gọi là “Đơn niệm biết” nghĩa là chỉ biết “khi thở ra tôi biết tôi thở ra, khi hít vào tôi biết tôi hít vào” ngoài ra tâm không còn biết bất cứ niệm nào nữa nghĩa là tâm không còn vọng tưởng. Nói cách kháccái biết này Đức Phật gọi là “Biết như thật” nghĩa là hít vào tôi biết tôi đang hít vào, thở ra tôi biết tôi đang thở ra.

Khi đang ở trong tầng định này thì tâm đang ở trình trạng khách quan nghĩa là tâm không còn thương ghét, không còn dính mắc quá khứ, tương lai ngay cả hiện tại cũng không còn dính mắc bởi vì lúc bấy giờ tâm chỉ biết mình đang hít thở ngoài ra không còn biết bất cứ chuyện gì xảy ra trong tâm hay ở ngoài thân.

Ở trong định này hành giả cảm nhận hỷ lạc dâng lên. Hỷ là niềm vui (joy) còn lạc là hạnh phúc (happiness). Hỷ lạc là niềm vui phát sinh tự trong tâm. Cái niềm vui này là do hành giả thực hành đứng đắn “Ly dục ly bất thiện pháp” nghĩa là hành giả phải có đời sống trong sạch và đạo hạnh, làm tất cả các việc lành và tránh xa các việc bất thiện. Nếu hành giả không sống đời “Ly dục ly bất thiện pháp” thì khó vào tầng thiền định này được. Vì vậy tiến tình này mới gọi là “Giới sanh Định” và cứu cánh sau cùng là “Định sanh Tuệ”.

Một khi hành giả làm chủ được các tầng thiền định thì người đó có thể đạt đến trạng thái hỷ lạc này bất cứ lúc nào họ muốn và có thể kéo dài cảm giác ấy theo ý thích. Trên con đường tu tập, Định đóng vai trò quan trọng là tạo sự an vui vì thế Thái tử đã nói rằng:”Đây là lạc (hạnh phúc) ta được hưởng”. Vì tâm của chúng ta chỉ có thể thực hiện một hành động ở một thời điểm hoặc là chúng ta mong cầu, theo đuổi việc gì hoặc là muốn tâm được an định. Vì thế, nếu chúng ta không quấy nhiễu tâm, để nó tự vận hành, thì nó sẽ tự đi vào định. Đây là một yếu tố tự nhiên của tâm. Hành giả có thể an trú trên tầng thiền định thứ nhất, nhưng cứu cánh là hành giả phải tiến đến tầng thiền định thứ nhì. Thái tử sau khi an trú ở sơ thiền khoảng một tuần thì Ngài bắt đầu chuyển sang nhị thiền.

2) Nhị thiền (Second Jhana): Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm.”.

Tuần lễ thứ nhìThái tử bắt đầu đi vào tầng thiền định thứ hai.

Qua đến tuần lễ thứ nhì, Thái tử không còn chú tâm vào hơi thở nữa, nhưng Ngài vẫn tiếp tục an trú trong Định. Cái khác nhau là Thái tử bây giờ vẫn an trú trong Định mà không còn hướng tâm và bám chặt tâm vào hơi thở nghĩa là Định mà Thái tử có bây giờ là Định không Tầm không Tứ. Tuy Thái tử không còn chú tâm đến hơi thở như trong Sơ thiền, nhưng Ngài vẫn còn biết một cách thầm lặng hơi thở ra vào đều đặn nghĩa là hít vào Ngài biết hít vào, thở ra Ngài biết mình đang thở ra. Khi tâm của Thái tử còn nhận biết hơi thở ra, vào là do tánh xúc chạm nơi mũi tức là cảm thọ. Đây là tầng định quan trọng nhất trong tất cả bốn tầng thiền định vì từ đây hành giả chỉ thêm bớt đề mục thì sẽ chuyển qua tầng thiền định kế tiếp.

Đến đây, Thái tử diễn tả là Ngài có nhiều hỷ lạc do Định sanh hơn tầng thiền thứ nhất. Khác với sơ thiền, có hỷ lạc là do Ly dục ly bất thiện pháp, còn hỷ lạc của nhị thiền là do Định phát sinh. Ngày nay khoa học có thể giải thích sự hỷ lạc này cũng giống như chất Dopamine làm cho con người có những giây phút lân lân, khoan khoái, sung sướng. Định của Phật giáo là do công phu tu tập mà có trong khi dùng hóa chất để kích thích sẽ làm cho hệ thống não bộ càng ngày càng suy yếu, thân tâm suy nhược. Khi con người dùng cocaine, methamphetamine…thì những hóa chất này sẽ kích thích hệ thống não bộ tiết ra chất Dopamine làm cho họ có những cảm giác lân lân (high)đê mê trong thời gian ngắn. Nếu muốn tiếp tục hưởng những cảm giác đó thì họ trở thành người nghiện ngập, biến cuộc sống trở thành điên đảo, vô định hướng. Ngược lại, hành giả vào các tầng thiền định cũng cảm nhận những niềm vui, cảm giác thanh thoát, nhẹ nhàng, hạnh phúc.

Lý do Thái tử thành công nhanh chóng vào sơ thiền và nhị thiền là do những kinh nghiệm mà Ngài đã thu thập thiền từ khi còn bé, khi Ngài còn tu khổ hạnh và sau cùng là Ngài có cuộc sống trong sạch, đạo đức, không dính mắc gì trong cuộc đời. Đó là những yếu tố giúp Ngài chuyển từ sơ thiền sang nhị thiền một cách nhẹ nhàng, không có gì khó khăn cả.

Tóm lại, sau khi chứng và an trú sơ thiền, bây giờ hành giả tiếp tục hành trì bằng cách diệt tầm diệt tứ. Hành giả lúc đó sẽ chìm vào trong trạng thái định và tâm rất an bình mà không cần bám víu vào bất cứ đề mục nào nữa. Lúc ấy hành giả chứng và an trú vào tầng thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh và dĩ nhiên không tầm, không tứ nghĩa là lúc đó hành giả sẽ không còn bất cứ điều gì suy nghĩ trong đầu cả tức là ý thức bị diệt, buông xả tất cả. Đến đây hành giả sẽ đạt được trạng thái nội tĩnh nhất tâm.

3) Tam thiền (Third Jhana): “Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba.”.

Ở tầng thiền thứ hai, Thái tử cảm nhận hỷ lạc do Định sanh mà hỷ lạc là do cảm thọ mà có được, nhưng từ Thọ sẽ chuyển qua Tưởng và sau đó Tưởng tức là tri giác sẽ trở thành Tầm tức là trở lại tầng thiền thứ nhất. Do đó, muốn tiến xa thì Thái tử bây giờ phải buông hỷ lạc, không để ý đến niềm vui nữa và từ đó Ngài mới bước qua tầng thiền định thứ ba. Khi mắt thấy, tai nghe, mũi ngữi…những đối tượng bên ngoài thì tâm phát sinh ý niệm. Bây giờ, nếu không thấy, không nghe, không ngửi thì chúng ta dập tắt những ý niệm từ bên ngoài rất dễ dàng. Tuy nhiênTưởng là cảm thọ từ bên trong nội tâm nên rất khó buông xuống. Khi ngồi thiền, tâm lắng đọng thì hành giả sẽ biết được những cảm thọ từ bên trong khiến vọng tưởng dấy khởi tức là hành giả bị dính mắc nơi cảm thọ.

Vì tầm quan trọng đó, nên đến đây Thái tử phải chấm dứt mọi cảm thọ. Và đến tuần thứ ba, Thái tử bước sang tầng thiền định thứ ba.

Đến tầng thiền thứ ba này, Thái tử không còn Tầm không còn Tứ mà Ngài chú tâm để loại bỏ hết mọi cảm thọ. Thái tử thực hành “Ly hỷ Trú Xả” nghĩa là gạt bỏ niềm vui trong tâm, không có thích thú nữa, trú xả có nghĩa là không chấp bất cứ ý niệm nào, chỉ biết những biến hành trong thân của mình một cách trung thực chẳng hạn như trạng thái lạc thì biết rằng thân mình có lạc hoặc trạng thái khổ thì biết rằng thân mình có khổ, nhưng đến tầng thiền này thì trạng thái khổ sẽ không còn nữa mà chỉ có lạc. Vì vậy tầng thiền định này gọi là Chánh niệm Tỉnh giác. Ở đây chúng ta gọi Chánh Niệm, nhưng trên thực tế thì Kinh điển chỉ gọi là Niệm tức là cái biết rõ ràng đầy đủ. Nói cách khác, lúc bấy giờ mình nhận biết tất cả những biến hành bên ngoài và bên trong tâm của mình nhưng không dính mắc bất cứ cái gì cả. Tỉnh giác là luôn luôn thức tỉnh để quan sát và hiểu biết chuyện gì đang xảy ra trong cơ thể của mình. Tỉnh giác cần phải có chánh niệm bởi vì nếu niệm bây giờ nghiêng về tà niệm thì lúc đó chánh định sẽ biến mất mà trở thành tà định vì thế tỉnh giác cần đi đôi với chánh niệm. Thân của hành giả sẽ có sự lạc thọ phát sinh và ở tầng thiền thứ ba này và cơ thể của hành giả sẽ không còn đau đớn, không còn bực bội, không còn mỏi mệt mà cơ thể hoàn toàn ở trạng thái thoải mái, khinh an, thanh thoát. Kinh điển gọi trạng thái này là xả niệm tức là bỏ hết ý niệm, lạc trú tức là trú trong an lạc và hành giả lúc ấy chứng và an trú tầng thiền thứ ba.

Điều quan trọng nhất ở tầng thiền thứ ba là Thái tử phải làm chủ cảm thọ. Ở ba tầng thiền định, hỷ lạc càng lúc càng tăng, nhưng Thái tử không dính mắc vào cảm thọ hỷ, lạc nghĩa là biết có hỷ lạc nhưng không dính mắc. Ngoài ra, từ đầu Thái tử đã thực hành pháp quán hơi thở mà hơi thở là do xúc chạm ở thân cho nên đến đây Ngài không để ý đến hơi thở nữa. Nhắc lại ở tầng thiền định thứ nhất và thứ hai Ngài còn chủ động hơi thở nghĩa là hít vào Ngài biết Ngài đang hít vào, thở ra Ngài biết Ngài đang thở ra. Hoặc Ngài thở hơi dài hay hơi ngắn Ngài đều có thể chủ động hơi thở của mình được. Đến tầng thiền định thứ ba thì Ngài bắt đầu buông hơi thở nghĩa là Ngài không còn chủ động hơi thở của mình nữa. Đến đây hơi thở bắt đầu nhẹ nhàng, nhỏ lại. Dần dần nhỏ lại đến một thời điểm nào đó lá phổi cảm nhận thiếu dưỡng khí (O2) cho nên lá phổi gởi tín hiệu lên trên hệ thống thần kinh não bộ. Từ đó hệ thống thần kinh não bộ khiến các tế bào của phổi hoạt động (co giãn) để đưa dưỡng khí vào phổi. Đến khi đủ dưỡng khí thì nó ngừng và cứ thế mà nó tiếp tục cung cấp dưỡng khí mỗi khi phổi gởi tín hiệu lên phần não bộ. Nên nhớ trong giai đoạn này, Thái tử không còn chủ động hơi thở của mình nữa cho nên Thái tử gọi thời gian này là Tịnh tức nghĩa là hơi thở yên tịnh.

4) Tứ thiền (Fourth Jhana): “Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.”.

Đến đây Thái tử hoàn toàn bất động nghĩa là thân, tâm hoàn toàn bất động cho nên tứ thiền còn gọi là Định bất động. Định bất động nghĩa là ba hành không động.

Ngôn hành: Bất cứ cái gì cấu tạo nên lời nói đều nằm ở trong đầu tức là Tầm và Tứ. Nhưng Thái tử đã diệt Tầm và Tứ trong tầng thiền định thứ hai rồi. Do đó kết quả của tầng thiền định thứ nhì là ngôn hành không động nghĩa là không còn nói.

Ý hành: Cấu tạo của ý là Thọ và Tưởng, nhưng Thái tử đã làm chủ cảm thọ cho nên Thọ và Tưởng yên lặng ở tầng thiền định thứ ba vì vậy đến đây trong tâm của Ngài không có ý thức phát hiện.

Thân hành: Ở tầng thiền thứ tư thì có thêm thân hành cũng không động. Thân hành không động ở đây có nghĩa là không còn hơi thở chớ từ tầng thiền định thứ nhất thì Thái tử đã ngồi thật yên lặng, không nhút nhích rồi. Đến đây hơi thở của Thái tử cũng yên lặng luôn nên gọi là Tịnh tức.

Trong tầng thiền định này hỷ lạc còn nhiều hơn nữa nhưng Ngài không dính mắc vào nó.

Tóm lại, ở tầng thiền thứ nhì hành giả có hỷ, lạc rồi đến tầng thiền thứ ba hành giả bỏ hỷ mà chỉ có lạc. Đến tầng thiền thứ tư hành giả phải bỏ luôn lạc, bỏ luôn khổ nghĩa là phải bỏ hết, đừng cảm thọ những lạc thọ của thân nữa và ngay cả những cảm giác khổ nào ở trong thân thì cũng bỏ đi, diệt hỷ, diệt ưu (tuy niềm vui, hay đau buồn đã được bỏ ở tầng thiền thứ nhì, nhưng nếu hành giả không chú ý thì nó sẽ trở lại cho nên ở tầng thiền thứ tư hành giả phải bỏ hết) do vậy hành giả sau khi xả lạc, xả khổ rồi còn phải diệt cả hỷ, diệt cả ưu để cho hết các cảm thọ của thân, tâm. Nói chung, hành giả phải bỏ hết, không bám víu vào hạnh phúc, không đau khổ bực tức vì nghịch cảnh, không còn cảm thọ của thân và cảm thọ của tâm. Đến đây hành giả không khổ, không lạc, không hỷ, không ưu, xả niệm thanh tịnh (buông bỏ hoàn toàn tất cả ý niệm nghĩa là nếu có lạc đến thì hành giả cứ bình thản, nếu có khổ, có hỷ hay có ưu đến thì hành giả vẫn bình thản lúc nào cũng ở trạng thái xả) thì hành giả chứng và an trú tầng thiền thứ tư. Đến đây thân, tâm của hành giả hoàn toàn trong sáng, không lạc, không khổ, không hỷ, không ưu, nhưng hành giả vẫn biết với tâm rất thanh tịnh, thanh thoát, nhẹ nhàng.

Thế thì dựa theo tiến trình trên, Thái tử trước hết ly dục ly bất thiện pháp, buông xả tất cả, tâm của Ngài hoàn toàn trong sáng, không lạc, không khổ, không hỷ, không ưu và sau cùng Ngài đắc tứ thiền, tâm hoàn toàn thanh tịnh. Nhưng đối với Phật giáo, Định không phải là mục đích sau cùng bởi vì cứu cánh tối thượng của đạo Phật vẫn là Trí tuệ (wisdom). Tiến trình Giới (đạo đức) – Định (thanh tịnh)  – Tuệ (trí tuệ) thì trong đó Định đóng vai trò cũng quan trọng, nhưng việc đạt được Định không đưa lại sự giải thoát vì Định chỉ có thể thanh lọc tâm ở những trạng thái bình thường chớ không thể phá vỡ những tập khí, hành động hay phiền não núp sâu thẳm trong tâm. Vì thế, vào thời Đức Phật còn tại thế, ngoài Phật giáo ra còn nhiều tôn giáo khác có thể đưa hành giả vào định đắc Tứ thiền, xa hơn nữa có rất nhiều ngoại đạo cũng luyện được năm thần thông, nhưng họ đâu có giải thoát. Do đó, một hành giả chứng tứ thiền, có thần thông nhưng chưa chắc đã đắc một Thánh quả nào. Vì thế đối với thế gian khi thấy một người có thể đi trên nước, bay trên không, độn thổ, đi xuyên qua tường, qua núi…thì chúng ta nghĩ rằng họ là Thánh thần hay tiên giáng thế. Tuy nhiên, đối với Phật giáo thì những thần thông kia không có gì quan trọng vì họ cũng chỉ là phàm nhân mà con đường giải thoát giác ngộ mới thật sự là cứu cánh tối thượng đưa hành giả trở thành Thánh nhân.

Đến đây, Thái tử đã chứng Tứ thiền, nhưng trong Phật giáo Tứ thiền không phải là Thánh giả hay người giải thoát mà hành giả phải tiếp tục loại bỏ 10 kiết sử và sau cùng mới đắc Thánh quả được.

Làm thế nào Thái tử Tất-Đạt-Đa đắc Tứ Thánh quả Trở Thành Phật?

Đây là điểm đặc thù mà chỉ có Phật giáo mới có và Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã khám phá ra Thiền quán để hóa giải tất cả 10 kiết sử đã cột chặt con người vào trong thế giới khổ đau. Đọc 16 Đề Mục Thiền Quán ở phần sau.

Vậy thế nào thiền quán?

Thiền quán là con đường đơn gin và trực tiếp để nhận biết “thế giới hiện thực như nó đang là” tức là “thực tánh pháp” nghĩa là cái thấy biết trung thực, không bị bóp méo bởi những tư tưởng hay định kiến của con người. Nói cách khác, Thiền trong Phật giáo không phải quán chiếu để tìm những phát minh cho thế giới vật chất mà hành giả xoay ngược vào tâm để quán chiếu về mặt tâm linh và trí tuệ để thấy biết rốt ráo con người thật của mình.

Muốn trở thành Thánh giả trong Phật giáo, hành giả có thể đi qua hai con đường:

1)Nếu hành giả đắc Tứ thiền và đọan trừ 10 kiết sử bằng cách tu theo 16 Tuệ Minh Sát của Thiền quán thì trở thành bậc A la hán và có lục đại (sáu) thần thông.

2)Nếu hành giả không qua Tứ thiền mà tu theo thiền Trí Tuệ với 16 tuệ Minh sát, đoạn trừ 10 kiết sử thì cũng trở thành bậc A-la-hán, nhưng vị này không có thần thông. 

Nói chung trong Phật giáo, có 10 kiết sử (chướng ngại) là:

_Thân kiến (sakkàya-ditthi): tin rằng ngũ uẩn là Ta và tin cái ngã thật sự hiện hữu.
Hoài nghi (vicikicchà): không tin vào Chánh Pháp của Đức Phật.
Giới cấm thủ (silabata-paràmàsa): tin tưởng và thực hành sai lầm vào giáo điều cực đoan.
Tham đắm vào cõi dục (kàma-ràga): Ngũ dục là năm thứ ham muốn của thế gian:

Tài dục: tham muốn cho có nhiều tiền bạc, của cải, vàng ngọc, tài sản vật chất.

Sắc dục: đắm say, đam mê sắc đẹp mỹ miều.

Danh dục: tham muốn địa vị, quyền cao chức trọng, danh thơm tiếng tốt.

Thực dục: tham muốn ăn uống cao lương mỹ vị.

Thùy dục: tham muốn ngủ nghỉ nhiều.
Sân hận (vyàpàda): tức giận, thù hằn.
Tham đắm vào cõi sắc (rùpa-ràga): đam mê vào cõi chúng sinh có thân và tâm.
Tham đắm vào cõi vô sắc (arùpa-ràga): đam mê vào cõi chúng sinh không có thân, họ sống bằng Thức.
Mạn (màna): tự phụ cho mình là cao quý, giỏi hơn người hoặc là mình thua kém người khác ở một phương diện nào đó  nhưng vẫn không chịu thua và còn cho mình là bằng người…
Trạo cử vi tế (uddhacca): Thân tâm lăng xăng, xao động không yên. Đồng thời, nó là một trong năm triền cái, ngăn trở công phu thiền định. Nó cũng gọi là trạo hối. Vì hối hận nên thân tâm không yên. Hối hận vì đã làm điều gì không phải, bất thiện hoặc là hối hận vì đã không làm điều phải, điều thiện.
Si vi tế (avijjà): những si mê sâu thẳm núp sâu tận trong tâm thức của con người.

Thánh giả dựa theo Phật giáo là người có thể vượt qua những kiết sử ở trên và tùy theo khả năng đoạn trừ các lậu hoặc mà có bốn tầng Thánh như sau:

1)Thánh quả Tuđàhoàn (Sotāpanna) hay Quả Nhập Lưu: là tầng Thánh đầu tiên vì vị này đã “Mở con mắt của Pháp” hay gọi là “Pháp nhãn” bởi vì vị ấy đã có thanh tịnh về quan kiến và trực nhận rõ ràng Chánh Pháp của Đức Phật sau khi vị ấy đã diệt trừ ba kiết sử đầu tiên là thân kiến, hoài nghi, và giới cấm thủ. Lúc bây giờ, vị ấy sẽ không còn nghĩ mình là một bản thể riêng biệt và thường tồn về cả hai phương diện sắc thân và tâm thức. Vị ấy sẽ không còn hoài nghi về Chánh Pháp và về sự giác ngộ của Đức Phật cũng như con đường mà Đức Phật đã vạch ra để hướng về giải thoát giác ngộ. Đức Phật lúc nào cũng khuyến khích chúng sinh biết tư duy, luận giải và chứng nghiệm để thấy, biết rõ ràng sự lợi ích của Phật Pháp vì đạo Phật là đạo đến để thấy, biết chớ không phải đến để tin. Loại trừ Giới cấm thủ ở đây không có nghĩa là thái độ phóng túng, không giữ gìn giới hạnh mà chỉ xem giới luật như là một phương thức để luyện tâm, nhưng đừng quá mù quáng lệ thuộc vào các hình thức giáo điều. Vì thế người đã phá bỏ được giới cấm thủ là một người lúc nào cũng có giới đức trong sạch, luôn sống thảnh thơi trong giới đức trong sạch đó nhưng không xem giới đức là gánh nặng trên con đường hành trì của họ.

2)Thánh quả Nhất lai Tưđàhoàn (Sakadāgāmi): Sau đó, vị ấy tiếp tục trừ khử bớt (giảm nhẹ) tham dục (tham dục trong giai đoạn này là tham đắm vào dục giới tức là thế giới ham muốn mà chúng ta đang sống) và sân hận thì vị đó đắc quả Nhất lai nghĩa là vị ấy chỉ có thể tái sinh trong đời này một lần nữa.

3)Thánh quả Bất lai Anahàm (Anāgami): Đến đây nếu vị Thánh giả ấy loại bỏ hoàn toàn hai kiết sử tham dục và sân hận ở trên thì vị ấy chng quả Bất lai nghĩa là vĩnh viễn không còn tái sinh nữa. Lý do con người còn tái sinh là vì chúng ta còn tạo nghiệp cho dù là thiện hay bất thiện. Còn tạo nghiệp là còn nguyên nhân để tái sinh mà thọ lãnh hạnh phúc hay khổ đau do chính họ đã gieo trong kiếp quá khứ. Vì thế nếu hành giả thật sự loại bỏ hết tham dục và sân hận trong cõi đời này thì cái nguyên nhân để tạo nghiệp chấm dứt. Không còn nghiệp thì vị ấy đã tự mình chặt đứt dây sinh tử luân hồi.

Tóm li, một hành giả nếu loại trừ năm kiết sử đầu là “Thân kiến, Hoài nghi, Giới cấm thủ, Tham đắm vào cõi dục và Sân hận” thì vị ấy trở thành Thánh giả Anahàm. Năm kiến sử đầu tiên này còn có tên là “hạ phần kiết sử” (orambhàgiya-samyojana) trói buộc con người trong cõi dục này (thế giới đầy hấp lực mà chúng ta đang sống).

4)Thánh giả Alahán (Arahant): Bây giờ nếu vị ấy tiếp tục hành trì thanh lọc tâm ý và tinh tấn loại trừ năm kiết sử còn lại là “Tham đắm vào cõi sắc, Tham đắm vào cõi vô sắc, Mạn, Trạo cử vi tế, Si vi tế” thì vị ấy trở thành Thánh giả Alahán. Năm kiết sử này gọi là “thượng phần kiết sử” (uddhambhàgiya-samyojana) cột trói con người vào cõi sắc và cõi vô sắc.

Tóm lại, khi phá luôn năm kiết sử cuối cùng, một vị Anahàm sẽ chứng quả Alahán nghĩa là đạo đức đã trở thành tuyệt đối hoàn hảo. Vị ấy đã thực hành trọn vẹn Giới, Định, Tuệ và hành trì toàn phần đoạn tận 10 kiết sử. Vị Alahán là bậc trí tuệ viên mãn, giải thoát hoàn toàn khổ đau sinh tử luân hồi nghĩa là vị ấy vĩnh viễn sẽ không còn tái sinh nữa cho nên: “Sanh đã tận, phạm hạnh dĩ thành, bất thọ hậu hữu: “Destroyed is birth, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being”.

Đến đây, kinh Saccaka tiếp tục diễn tả lại cuộc hành trình đưa Thái Tử đắc tam minh như sau:

1)Trước nhất Ngài đắc Túc Mạng Minh:

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: “Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này”. Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Aggivessana, đó là minh thứ nhất Ta đã chứng được trong đêm canh một, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta”.

Túc là đời trước, mạng là sinh mạng còn minh là sáng suốt. Do đó túc mạng minh là sáng suốt để thấu biết rõ ràng những đời trước của mình. Đây là lời giải đáp câu hỏi con người chúng ta từ đâu mà đến? Đức Phật đã thấy rõ vô số tiền kiếp của mình như việc mới xảy ra hôm qua. Đời trước Ngài là ai? Tên gì? Và sống ở đâu? Từ đó vô số kiếp hiện ra trước mắt Ngài, một kiếp qua đi thì kiếp khác lại đến.

2)Rồi tiếp theo Ngài đắc Thiên Nhãn Minh:

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Như vậy Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này Aggivessana, đó là minh thứ hai Ta đã chứng được trong đêm canh giữa, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta”.

Thiên nhãn minh là con mắt sáng suốt thấy rõ ràng những gì rất xa một cách tường tận. Ngài đã thấy sự sanh tử của chúng sinh dựa trên căn nghiệp mà chính họ đã tạo ra. Sự thấy biết của Ngài như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy kẻ qua người lại một cách rõ ràng. Đức Phật thấy rằng con người chết rồi không phải là hết mà phải theo nghiệp đi tái sinh và thọ báo những nghiệp quả mà chính họ đã gieo từ kiếp trước. Đây là câu trả lời cho nghi vấn rằng sau khi chết chúng ta sẽ đi về đâu.

Dựa theo Phật giáo, con người sinh ra trong thế gian này từ cái khuôn đúc (kết quả) của các hành động của chúng ta, cha mẹ chỉ cho chúng ta cái thân xác vật chất này nghĩa là trước phải có cha mẹ rồi sau mới có chúng ta. Trong lúc thọ thai, nghiệp tạo ra thức tái sinh tức là thức đầu tiên trong cuộc đời của thai nhi để dưỡng sinh cho thai bào. Nghiệp lực là năng lực vô hình của nghiệp do chính chúng ta tạo ra trong kiếp quá khứ phát sinh ra một hiện tượng tinh thần (thức tái sinh) kết hợp với tinh cha huyết mẹ và tinh trùng của người cha (sinh khí) để tạo thành sự sống cho một thai nhi. Phật giáo quan niệm rằng cái chết là sự đình chỉ đời sống vật lý (thân xác) của một cá nhân. Nếu có một chúng sinh sắp thọ sanh nơi đây thì phải có một chúng sinh sắp chết ở một nơi nào khác cũng giống như sự xuất hiện của mặt trời vậy. Nếu mặt trời mọc ở phương Đông thì ngay lúc đó mặt trời cũng đang lặn ở phương Tây. Có thể nói đời sống của nhân sinh như lượn sóng. Sanh và diệt là những tiến trình của hai giai đoạn sống chết, chết sống và sự liên tục nối tiếp mãi của chu kỳ sống chết, chết sống được gọi là Luân hồi. Mặc dầu cuộc sống cuối cùng đã chấm dứt, nhưng cái chết không phải là sự tiêu diệt hoàn toàn của một chúng sinh bởi vì năng lực thúc đẩy cho sự sống tức là nghiệp lực vẫn còn nguyên vẹn. Bạn hãy quan sát ánh sáng phát ra từ bóng đèn chỉ là sự biểu hiện bề ngoài của nguồn điện lực vô hình liên tục tiềm ẩn bên trong dây điện. Bóng đèn có thể bể, ánh sáng có thể tắt (chết), nhưng luồng điện vẫn còn (nghiệp lực) và ánh sáng sẽ xuất hiện lại khi thay thế bằng một bóng đèn khác (thân xác mới). Năng lực của nghiệp thì cũng vậy, nó không hề bị lay chuyển bởi sự tan rã của thân xác. Đến lúc chết, tâm thức diệt (tử tâm) để cho một tâm thức mới sinh lên (thức tái sinh). Ở đây, tâm thức mới (thức tái sinh) sẽ thọ hưởng cả một gia tài kinh nghiệm của quá khứ. Tuy nhiên, những kỷ niệm, ký ức ghi nhận sâu xa trong tâm thức thay đổi liên tục và những tiềm lực liên tục chuyển sang từ cuộc sống này qua cuộc sống khác, không liên hệ đến sự tan rã nhất thời của phần vật chất (thân xác). Nhờ đó mà trong cuộc sống mới, con người có thể sực nhớ lại những tiền kiếp hoặc các kinh nghiệm, ký ức đã xảy ra trong quá khứ.

Một nét đặc thù rất quan trọng trong thuyết tái sinh của Phật giáo là tuy tấm thân vật lý chấm dứt ở một thân xác, nhưng dòng chảy của tâm thức không hề bị ngưng trệ. Khi Đức Phật còn sinh tiền, Ngài đã khẳng định rằng sự tái sinh xảy ra tức khắc (ngay lập tức) chớ không phải trải qua một giai đoạn trung gian nào khác. Chỉ sau này Phật giáo Tây tạng và Phật giáo đại thừa dựa theo luận thuyết của luận sư Long Thọ, Vô Trước và Thế Thân gọi là Thân trung ấm mà nó cần 49 ngày để thọ sanh. Cũng nên nói thêm, sự phát triển của Phật giáo Tây Tạng có những nét đặc thù mà có lẽ không quốc gia nào khác trên thế giới có được. Vào năm 641 AD, vua Đường Thái Tông của Trung Hoa gã công chúa Văn Thành cho vua Tây Tạng. Nữa thế kỷ sau đó, năm 710 AD, vua Đường Duệ Tông lại gả công chúa Kim Thành cho vua Tây Tạng đời thứ 35 là Khí-lệ-xúc-tán. Vị công chúa này lại mang đến Tây Tạng rất nhiều kinh thư và sách vở của Trung Hoa. Công chúa Văn Thành và Kim Thành là những người thông minh, có học thức và thấu đáo chẳng những về Phật giáo mà còn làu luyện triết lý về Đạo giáo. Do đó họ đem tư tưởng “thần của cái chết” tức là Diêm vương của Trung quốc vào trong Phật giáo Tây tạng. Trong cuốn Bardo Thodol “Tòa án của thần chết” thì Yuma tức là Diêm vương ngự trên ghế của quan tòa xữ án những linh hồn chết. Do đó Phật giáo Tây tạng là sự tổng hợp, pha trộn  của nhiều luồng tư tưởng, nhiều hệ phái và những huyền thuật phép màu do ảnh hưởng lâu đời của đạo Bon Pa để lại.

Tóm lại, khi chết thì nghiệp lực lan tỏa cũng giống như một làn sóng điện được phát ra trong không gian, tức thì được thâu vào một máy radio hay TV. Thế thì tiến trình hình thành cho cuộc sống hiện tại là kết quả của một ước muốn đã hình thành trong kiếp quá khứ và ước muốn hình thành hiện tại sẽ tạo điều kiện cho một đời sống cho kiếp tương lai và dòng sống này sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận.

Nếu cho rằng những con người vừa mới sinh ra là do sự sáng tạo của Thượng đế và không có liên quan gì đến kiếp sống trước thì Phật giáo gọi đây là đoạn kiến (quan niệm rằng chết là hết), là không đúng. Ngược lại, có quan niệm cho rằng linh hồn từ kiếp trước đầu thai vào kiếp sống mới thì đạo Phật gọi đây là thường kiến (linh hồn bất tử), cũng không đúng luôn. Dựa theo tinh thần Phật giáo, sự hình thành của Danh (thân xác) và Sắc (tâm thức) trong một kiếp sống mới là kết quả của vô minh, tham ái và nghiệp từ kiếp trước. Nói thế nghĩa là kiếp sống mới không phải là sự đầu thai của kiếp sống cũ, nhưng nó không phải không từ kiếp sống cũ mà có. Ví cũng như khi một cây đèn cầy được mồi từ ngọn lửa của cây đèn thứ nhất, ngọn lửa mới bây giờ không phải là ngọn lửa của cây đèn cầy thứ nhất, nhưng nó không thể hiện hữu nếu không có ngọn lửa của cây đèn thứ nhất. Thế thì hai cây đèn cầy hoàn toàn khác, kích thước khác nhau, màu sắc khác nhau, ngọn lửa cũng khác nhau. Do đó, từ tướng diện, nhân cách, tài năng…cho đến mọi sự khổ, vui trong đời này là phản ảnh trực tiếp từ những nghiệp mà con người đã kiến tạo từ kiếp trước cho nên hai ngọn lửa khác nhau là thể hiện hai cuộc sống khác nhau. Thí dụ tiền kiếp có người sống trong giàu sang quyền quý, nhưng tham lam bỏn xẻn, ưa hãm hại người (ngọn lửa cây đèn thứ nhất) nay sang đến kiếp này thì cuộc sống trở thành nghèo đói và luôn bị người hãm hại lại (ngọn lửa của cây đèn thứ hai). 

Đức Phật dạy rằng “ngũ uẩn là vô ngã” tức là “ngũ uẩn giai không” nghĩa là khi duyên kết thì có đủ sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đó là trạng thái hoạt động của con người khi còn sống. Đến khi duyên hoại tức là chết thì các uẩn từ từ tan rã trở về với trạng thái nguyên thủy của nó. Do đókhi chết thì sắc thân (sắc uẩn) hoại diệt chỉ còn là nắm tro, cát bụi trở về với cát bụi. Sắc diệt thì cảm thọ (thọ uẩn) cũng mất. Không còn Thọ (uẩn) thì Tưởng (uẩn) cũng không còn. Thọ, Tưởng mất thì Hành (uẩn) cũng bị diệt theo. Đối với một con người bình thường (không phải là Thánh giả)khi nhắm mắt thì nghiệp lực sẽ quyết định số phận tương lai (tái sinh) của bạn chớ không phải do bạn quyết định được. Nghiệp lực (sức mạnh của nghiệp) sẽ chuyển Thức (tái sinh) vào kết (duyên) trong noãn bào của người mẹ (trong lúc tinh trùng của người cha vừa mới lọt vào tử cung của người mẹ) để tạo thành một thai nhi, có đủ Danh (Thức tái sinh) và Sắc (tinh cha huyết mẹ). Tinh trùng là sự sống tiếp cho thai nhi (Sinh khí) cho nên ngày nay cho dù con người có thụ thai nhân tạo hay là gì đi chăng nữa thì bắt buộc phải có tinh trùng.

3)Và sau cùng Ngài đắc Lậu Tận Minh:

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyển, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Ta biết như thật: “Ðây là Khổ“, biết như thật: “Ðây là Nguyên nhân của khổ“, biết như thật: “Ðây là sự Diệt khổ“, biết như thật: “Ðây là Con đường đưa đến diệt khổ“, biết như thật: “Ðây là những lậu hoặc“, biết như thật: “Ðây là nguyên nhân của lậu hoặc“, biết như thật: “Ðây là sự diệt trừ các lậu hoặc“, biết như thật: “Ðây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc“. Nhờ biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, Ta khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát.” Ta đã biết: “Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa“. Này Aggivessana, đó là minh thứ ba mà Ta đã chứng được trong canh cuối, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta”.

Lậu là rơi rớt, tận là chấm dứt, là hết. Do đó lậu tận minh là biết tường tận để không còn tái sinh mà thọ lãnh cảnh khổ của cuộc đời. Đức Phật đã thấy nguyên nhân nào chúng sinh có sanh tử và phương cách nào chấm dứt sự sinh tử  để không còn rơi rớt, trầm luân trong cảnh khổ của thế gian. Đây chính là chân lý Tứ Diệu Đế. Con người không còn sinh tử tức là vĩnh viễn không còn khổ đau và đây là câu trả lời cho nghi vấn rằng cuộc đời nầy đầy dẫy khổ đau do đó nếu muốn thoát khổ và ra khỏi vòng sanh tử thì phải làm sao?

Đức Phật khẳng định rằng sau khi đắc quả Alahán Chánh đẳng Chánh giác thì Ngài đã đạt đến mục đích tối hậu cho nên trong Ngài không còn nhiễm ái và Ngài sẽ không còn tái sinh cho nên tấm thân tứ đại của Ngài bây giờ là tấm thân cuối cùng, vĩnh viễn sẽ không còn tái sinh nữa.

Sau khi thành đạo dưới cội Bồ Đề, Đức Phật đã dùng bảy ngày để tận hưởng hạnh phúc của sự giải thoát giác ngộ. Trong đêm cuối cùng của ngày thứ bảy, Đức Phật quán xét giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên (Twelve Conditional Factors).

Thập Nhị Nhân Duyên là giáo lý Duyên Khởi nghĩa là khi cái này (Nhân) có thì cái kia (Quả) có, cái này (Nhân) diệt thì cái kia (Quả) sẽ diệt. Nói cách khác “Nhân Duyên” trong “Mười hai nhân duyên” có nghĩa là “Nhân Duyên khởi” tức là sự nương tựa vào nhau mà sinh khởi. Đó là “do cái này có mặt, cái kia có mặt; do cái này không có mặt, cái kia không có mặt; do cái này sinh, cái kia sinh; do cái này diệt, cái kia diệt“. Đức Phật đã khám phá rằng trong thế gian vũ trụ này, mọi hiện tượng từ vật chất đến tinh thần đều có quan hệ mật thiết với nhau, không có vật thể nào tự nó sinh tồn mà không cần đến những nhân duyên khác. Thí dụ, cái nhà chúng ta ở, chiếc xe chúng ta lái, thực phẩm chúng ta ăn uống hằng ngày, áo quần chúng ta mặc…đều là những đóng góp công sức của biết bao chúng sinh khác khắp mọi nơi trên thế giới. Chúng ta sống còn là nhờ họ và ngược lại. Đó là cốt lõi của giáo lý Duyên khởi.

Ở đâyĐức Phật sau khi khám phá ra con đường giải thoát giác ngộ dựa theo thiền định và thiền quán, từng giai đoạn, từ thấp đến cao. Con đường này chẳng những Đức Phật thực hành viên mãn mà có biết bao người khác cũng thực hành phương pháp này để trở thành Thánh giả. Vì thế đạo Phật mới gọi là đạo của khoa học.

Đạo Phật tuyệt đối không có gì là bí mật cả, Đức Phật không dấu chúng sinh bất cứ những gì Ngài chứng đắc vì thế khi giảng pháp hai bàn tay Đức Phật lúc nào cũng buông xả vì thế vào thời Đức Phật còn tại thế, không những chỉ Đức Phật chứng Thánh quả mà còn có trên 1250 vị Alahán và biết bao Thánh giả khác trong ba tầng Thánh còn lại.

Tóm lại, Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã chứng đắc giải thoát giác ngộ và Ngài là một mẫu mực, một gương mẫu tối thượng của cuộc đời. Chính Ngài đã chứng minh khả năng đạt được giải thoát hoàn toàn tất cả mọi trói buộc của tâm, hoàn toàn thoát khỏi khổ đau và dĩ nhiên thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Vai trò của Ngài đối với nhân loại như là một người chỉ đường, là đấng đạo sư giúp họ nỗ lực tinh tấn tu tập để dập tắt những ngọn lửa tham-sân-si đang bùng cháy trong tâm của họ mà đạt đến cứu cánh tối thượng là giải thoát Niết bàn và trở thành các bậc Thánh giả Alahán. Như thế trong thời kỳ Nguyên thủy gốc, Đức Phật chính là một con người lịch sử, là một bậc thầy vĩ đại, là đấng tôn kính cho cả Trời và người, là đấng Chánh Biến Tri.

Đối với Phật giáo, chứng đắc là khả năng buông bỏ chớ không phải được (đắc) cho nên càng chứng đắc các tầng Thánh cao thì khả năng buông bỏ càng cao cho đến khi buông bỏ tận cùng thì trở thành Phật.

Hãy lắng nghe câu chuyện của Ngài Kotthika hỏi Ngài Xá lợi Phất (Sàriputta) trong kinh Sìlavanta Sutra:

– Một vị đã đắc quả ALaHán còn hành thiền để làm gì? Có phải để tiến đến Bích Chi Phật (Độc Giác Phật) không? Hay vị ấy sẽ trở thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác?

Ngài Xá lợi Phất trả lời:

– Không. Cũng không phải vậy. Là ALaHán, vị ấy đã chấm dứt vòng sanh tử, tử sanh, và sẽ nhập Niết Bàn. Một vị ALaHán đã hoàn toàn trong sạch, không còn mảy may ô nhiễm nào để thanh lọc hoặc làm giảm suy. Tất cả mọi hoặc lậu đã được diệt trừ tận cội rễ. Do đó, vị ấy không còn pháp tu tập nào nữa để phát triển nhằm loại trừ, hoặc làm giảm suy ô nhiễm ngủ ngầm. Ngài cũng không còn Giới, Định hay Tuệ nào nữa cần phải trau dồi cho được toàn hảo. Như vậy Ngài không cần phải gia công làm cho điều gì trở nên toàn hảo cũng không cần phải tăng trưởng để làm cho những gì đã toàn hảo, trở nên càng toàn hảo hơn. Một vị ALaHán hành Thiền Minh Sát chắc chắn không phải để tìm những lợi ích tương tợ.

Phật giáo Nguyên thủy nhìn Đức Phật bằng một góc độ rất thực tế, dựa trên con người lịch sử. Vì thế Đức Phật đối với họ là vị A-la-hán đầu tiên của tất cả các vị A-la-hán. Trong ngũ bộ kinh Nikayas, Đức Phật đã nhiều lần xác nhận rằng hằng trăm nếu không muốn nói hằng ngàn đệ tử thuộc hàng Thánh giả của Ngài cũng chứng đắc các cấp độ tâm linh ngang bằng với Đức Phật. Trong kinh Bộ Tương Ưng, Đức Phật tuyên bố chính Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputa) đã chứng ngộ và thâm hiểu giáo lý Duyên Khởi (Pratiyasamutpada) rất sâu thẳm như chính Thế Tôn vậy. Ngoài ra, còn có những bậc Thánh giả khác như các Tôn giả Đại-Ca-Diếp (Mahkassapa), Mục Kiền Liên(Maggallana), Phú Lâu Na…cũng chứng đắc một số khả năng về những lãnh vực như giảng giải thuyết pháp, xuất nhập các cấp độ thiền, thi thố thần thông ngang bằng Đức Phật. Đức Phật trong ngũ bộ kinh Nikayas không hề phát biểu lời tuyên bố nào để phân biệt sự khác nhau giữa Ngài và các vị A-la-hán ngoại trừ lời nói sau đây trong kinh Tương Ưng:

Này các Tỳ kheo! Như Lai là vị A-la-hán, bậc chứng ngộ hoàn toàn. Như Lai là người đã khiến cho con đường trước kia chưa sinh khởi nay sinh khởi, đưa ra con đường trước kia chưa được đưa ra, làm hiển lộ con đường trước kia chưa từng hiển lộ, là vị nhận biết con đường, hiểu rõ con đường và là vị thiện xảo trong con đường. Và giờ đây, này các Tỳ kheo, hàng đệ tử là người đi theo con đường của Như Lai. Này các Tỳ kheo! Đó là nét đặc biệt, sự đặc thù để phân biệt Như Lai, bậc A-la-hán, vị chứng ngộ hoàn toàn với các Tỳ kheo đã giải thoát.

Vì vậy, Đức Phật không chỉ là vị A-la-hán với vài điểm đặc biệt, mà chính những nét đặc biệt đó đã nâng Ngài lên tầm mức phi thường, trở thành đấng vô thượng đạo sư của cả thế giới và dĩ nhiên đứng trên tất cả các vị A-la-hán khác.

Thế thì Đức Phật cũng là bậc Alahán, nhưng vì Ngài là bậc thầy của tất cả các vị Ala-hán sau này và là bậc đã khai sáng ra đạo Phật cho nên danh vị Phật chỉ dành riêng cho Ngài vì thế Đức Phật chính là bậc A-la-hán Chánh đẳng, Chánh giác.

Cũng nên nói thêm, Thái tử Tất-Đạt-Đa chứng tứ thiền, đắc tam minh trở thành Phật chớ không hề có Bát nhã. Mãi 600 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn, luận sư Long Thọ mới giới thiệu tư tưởng Bát Nhã và 400 năm sau đó, luận sư Vô Trước và em  là sư Thế Thân mới giới thiệu Duy thức mà về sau ngài Huyền Trang thỉnh về Trung Quốc và dịch sang Hán tự như Bát Nhã Tâm Kinh, Thành Duy thức luận, Du Già Sư Địa luận…

Sau khi chứng Tứ thiền, đắc Tam minh,  Đức Phật dạy rằng:’Tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, ngoài phạm vi lý luận (beyond logic) (bất khả tư nghì)(bất khả thuyết)(chân lý tối hậu), dễ sử dụng, bình tĩnh, như vậy”.

Đến đây, Đức Phật thốt lên rằng Ngài hoàn toàn an định, thanh tịnh và trong sáng, không còn bất cứ cấu nhiễm nào của trần thế. Ngài đã đạt đến sự chứng đắc tối thượng của tâm linh mà chính Ngài cũng không thể giải thích được vì nó ra ngoài tất cả những lý luận, suy tư của thế giới con người. Đây là chân lý tối hậu mà chỉ những người chứng đắc mới tự mình thấu biết chớ không thể diễn giải bằng bắt cứ ngôn tự nào của con người. Vì thế đối với đạo Phật, kinh điển chỉ là phương tiện, là ngón tay, chớ không phải là mặt trăng hay chân lý. Đối với đạo Phật, bất cứ cái gì mà có thể diễn tả bằng ngôn từ thì cái đó không phải là chân lý do đó mới có câu: “tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri” nghĩa là người biết ở đây là người đã chứng nhập chân lý thì họ không nói được vì chân lý không thể diễn bày. Còn người nói nhiều là người chưa chứng nhập. Do đó, không cần lý luận cao siêu hay trừu tượng vì càng lý luận thì càng đi xa chân lý cho nên cốt lõi của đạo Phật vẫn là tự tu, tự giác, tự tri nghĩa là phải tự mình tu chứng, tự mình cảm nhận, tự mình trải nghiệm và tự mình biết. Đó là “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri” nghĩa là người nào uống nước thì kẻ đó tự mình biết nước nóng, lạnh thế nào.

Thế rồi lúc bình minh vừa ló dạng, bầu trời thật đẹp và trong sáng, chim muôn líu lo trên cành, thật là một bồng lai tại thế. Bởi vì từ đây nhân loại có được một đấng giác ngộ, người mà đã dám hy sinh, từ bỏ tiền tài danh vọng để đổi lấy cuộc sống tu hành khắc khổ, cố tâm tìm đạo để cứu giúp chúng sinh còn đang lặn hụp trong vòng sinh tử trầm luân.

Ngài thành đạo vào ngày mùng tám tháng chạp âm lịch năm 589 TCN vào lúc sao mai mọc. Lúc đó Ngài vừa 35 tuổi.

Bắt đầu từ thời điểm đó, Thái tử biết mình là Phật, là một đấng Giác ngộ nên Ngài thốt lên rằng: “Ta đã hoàn thành xong Bát Chánh Đạo, Các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, đạt chánh trí giải thoát, đắc đạo quả Niết BànTa không còn tái sinh nữa”.

Cuối cùng, Thái tử đã đạt tới giác ngộ, trở thành Phật toàn giác, là bậc anuttara samma sambodhi nghĩa là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, là Đức Phật Thích-ca Mâu-ni (Shakyamuni) với Thập hiệu:

1.     Như lai (tathāgata), là “Người đã đến như thế” và tuệ giác của Đức Phật như Mặt Trời soi sáng khắp thế gian, xóa tan đêm tối vô minh.

2.     Ứng cúng (arahant), dịch nghĩa là A La Hán, là “Người đáng được cúng dường”, đáng được tôn kính.

3.     Chánh Biến Tri: (samyaksaṃbuddha) là “Người hiểu biết đúng tất cả các pháp “.

4.     Minh Hạnh Túc (vidyācaraṇasaṃpanna), nghĩa là “Người có đủ trí tuệ và đức hạnh “, tức là có đầy đủ tam minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh).

5.     Thiên Thệ: (sugata), là “Người đã đi một cách tốt đẹp”

6.     Thế Gian Giải: (lokavid), là “Người đã thấu hiểu thế gian “

7.     Vô Thượng Sĩ:  (anuttarapuruṣa), là “bậc tu hành tối cao, không ai vượt qua”

8.     Điều Ngự Trượng Phu:  (puruṣadamyasārathi), nghĩa là “Người đã chế ngự được bản ngã và nhân loại “, có khả năng điều phục những người hiền và ngự phục những kẻ ác theo về chính đạo.

9.     Thiên Nhân Sư: (devamanuṣyānāṃ śāstṛ), là “Bậc thầy của cõi người và cõi trời”

10.Thế Tôn: (buddhalokanāthabuddhalokajyeṣṭhabhagavān), là “bậc giác ngộ được thế gian tôn kính”.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Lê Sỹ Minh Tùng

Leave a Reply

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.